Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Việt Nam với đặc thù là một nước đang phát triển, trong điều kiện hiện nay chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
Trang 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Trang 2TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Trang 3LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trịnh Hữu Dũng
Trang 4LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội và
sự đồng ý của giáo viên hướng dẫn TS Trần Lệ Thu về đề tài luận văn: "Pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở từ thực tiễn quận Đống
đa - thành phố Hà Nội" Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất
nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của quý thầy, cô giáo trong trường
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo của Trường Đại học Mở Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình tôi học tập, nghiên cứu tại Trường
Chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn khoa học TS Trần Lệ Thu đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu thực hiện luận văn của mình
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một cách hoàn chỉnh nhất, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà tự bản thân không thể tự nhận thấy được Tôi rất mong nhận được sự góp ý của Quý thầy, cô giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn, công trình nghiên cứu của mình
Hà Nội, ngày 08 tháng 01 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trịnh Hữu Dũng
Trang 5MỤC LỤC
Trang
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI
ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở; PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU
1.1 Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở 6
1.1.2 Khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở 9 1.1.3 Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
1.2.1 Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
1.2.2 Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở 18 1.2.3 Nội dung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
1.2.4 Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất ở và các yêu cầu đặt ra 24
ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở QUA THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI 30 2.1 Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
Trang 62.1.1 Sơ lược lịch sử pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
2.1.2 Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
2.2 Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất ở trên địa bàn quận Đống Đa -
2.2.1 Vài nét về quận Đống Đa, thành phố Hà Nội 49 2.2.2 Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
2.2.3 Đánh giá việc áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất ở qua thực tiễn áp dụng tại Quận
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở phải phù hợp với quan điểm, đường lối, chủ
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi
ich của doanh nghiệp và lợi ich hợp pháp của người sử dụng đất,
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở phải đảm bảo cho người dân có nơi ở tái định
3.1.4 Chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đồng
bộ, thống nhất, khách quan đảm bảo lợi ích cho các bên có liên quan 66
Trang 73.1.5 Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở phải đảm bảo tính bền vững 66 3.1.6 Hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở đảm bảo sự đồng thuận và nâng cao sự đồng
thuận của người dân đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư 67 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ
3.2.3 Một số giải pháp đảm bảo công tác thi hành pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở trên địa bàn
Trang 8
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GPMB : Giải phóng mặt bằng NNTHĐ : Nhà nước thu hồi đất TĐC : Tái định cư
THĐ : Thu hồi đất UBND : Ủy ban nhân dân
Trang 9MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam với đặc thù là một nước đang phát triển, trong điều kiện hiện nay chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu
về xây dựng các công trình phục vụ mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng ngày càng gia tăng, điều này đồng nghĩa với việc Nhà nước phải tiến hành thực hiện thu hồi đất (THĐ) của nhân dân phục vụ cho công cuộc đổi mới, đồng thời Nhà nước cũng phải tiến hành việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (TĐC) sau khi THĐ, đặc biệt là đất ở cho người dân Vì vậy, Luật đất đai năm 2013
ra đời thay thế Luật đất đai năm 2003 đã quy định một cách cụ thể hơn về vấn đề bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) ở Tuy nhiên, thực tiễn chứng minh những quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều vướng mắc như: điều kiện hỗ trợ, bồi thường về đất, giá trị bồi thường, hỗ trợ đất, nhà ở, tài sản khác trên đất, vấn đề TĐC, các điều kiện sinh hoạt của người dân phải di dời, những vấn
đề phát sinh sau khi thực hiện chính sách hỗ trợ Bên cạnh đó, các cơ quan áp dụng pháp luật về bồi thường hỗ trợ, TĐC khi THĐ ở còn bị động, thiếu linh hoạt, nhiều
vi phạm pháp luật trong giải quyết bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi THĐ ở vẫn đang diễn ra, gây nhiều bức xúc trong dư luận, tình trạng khiếu kiện còn nhiều phức tạp, đòi hỏi cần có các giải pháp đồng bộ, hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường
hỗ trợ, TĐC khi THĐ ở, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực này
Từ thực trạng nêu trên việc nghiên cứu, nhận diện, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là việc làm cần thiết và có ý nghĩa Đặc biệt, việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở tại quận Đống Đa - thành phố Hà Nội càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vị trí địa lý quận Đống Đa nằm trên trục phát triển phía Tây thành phố Hà Nội, nơi có nhiều dự án giải phóng mặt bằng (GPMB) nhất nhì thành phố Vì thế,
Trang 10học viên đã chọn đề tài: "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở từ thực tiễn quận Đống đa - thành phố Hà Nội" làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình
2 Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đến nay, vấn đề bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ ở đã thu hút được
sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau Có thể đề cập đến một số công trình, bài báo tiêu biểu như:
- Cuốn chuyên khảo: Pháp luật về định giá trong bồi thường giải phóng
mặt bằng ở Việt Nam, PGS.TS Doãn Hồng Nhung (chủ biên), Nxb Tư pháp, 2013
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường (2013): Pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất - thực trạng và hướng hoàn thiện, của
TS Nguyễn Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội
- Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn thạc
sĩ Luật học, của Nguyễn Vinh Diện, năm 2006;
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
(qua thực tiễn thi hành hành tại thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Nguyễn Duy Thạch, năm 2007;
- Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Tân Cảnh, năm 2017;
- Pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Lê Thành Long, năm 2017;
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ
thực tiễn tỉnh Tây Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Tất Đắc, năm 2018;
- Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh
Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Lê Phú Lượng, năm 2018;
- Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, của Phạm Thu Thủy, năm 2014;
- Nhà tái định cư: vừa ở vừa…run, của Nguyễn Thiêm ,Báo Công an nhân
dân, số ra ngày 21/5/2005;
Trang 11- Vấn đề việc làm cho người bị thu hồi đất ở nông thôn trong quá trình xây
dựng, phát triển các khu công nghiệp, của Đỗ Đức Quân, Tạp chí Kinh tế và Dự
- Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất, của ThS Lê Ngọc Thạnh, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 11 (73), tháng
6 năm 2009, tr 40-43;
- Dân bức xúc vì sự vô cảm của chính quyền, của nhóm phóng viên điều
tra, Báo điện tử Nhà báo và Công luận, số ra ngày 17/9/2009
Nói chung, các công trình, bài báo nêu trên đều nghiên cứu về bồi thường khi NNTHĐ ở mức độ và phạm vi khác nhau Có công trình, bài báo nghiên cứu đi sâu phân tích, bình luận một số khía cạnh pháp lý về bồi thường khi NNTHĐ; có công trình, bài báo nghiên cứu vấn đề này ở phạm vi rộng nhằm đánh giá khái quát pháp luật và thực trạng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ Bên cạnh đó, lại có công trình nghiên cứu vấn đề này thông qua việc đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tại địa bàn cụ thể của một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương…
Tuy nhiên, chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu vấn đề pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở theo quy định của Luật đất đai năm 2013 qua việc khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở tại quận Đống Đa - thành phố Hà Nội
3 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trang 12pháp luật về bồi thường, hỗ trợ TĐC khi NNTHĐ ở và đảm bảo hiệu quả áp dụng
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ TĐC khi NNTHĐ ở
4 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở theo quy định của Luật đất đai năm 2013 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Đống Đa - thành phố Hà Nội
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở trên địa bàn quận Đống Đa - thành phố Hà Nội (Thời gian nghiên cứu 5 năm từ năm 2013 - năm 2018)
5 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn này sẽ sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
và phương pháp logic làm phương pháp luận cơ bản và xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu, cùng với một số phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác, cụ thể là:
Phương pháp phỏng vấn sâu được sử dụng chủ yếu trong Chương 2, phỏng vấn là phương pháp quan trọng để thu thập dữ liệu về các yêu cầu của hệ thống thông tin Việc phỏng vấn nhằm phát hiện thông tin về các ý kiến của người được phỏng vấn về những vấn đề xung quanh việc THĐ ở
Phương pháp so sánh được sử dụng trong Chương 1, Chương 2
Trang 13Phương pháp quy nạp và diễn dịch sử dụng trong cả 3 chương
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp và thứ cấp từ các nguồn liên quan và đáng tin cậy, được sử dụng chủ yếu ở Chương 2 và Chương 3
6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Luận văn cung cấp một cách toàn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Luận văn là nguồn tư liệu tổng hợp về thực trạng pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở Cung cấp thêm các luận cứ khoa học trong công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở tại quận Đống Đa - thành phố Hà Nội trong thời gian tới Luận văn có giá trị tham khảo đối với sinh viên đại học, cao học luật và hành chính, có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu ở Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, hoặc làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này Những đề xuất, giải pháp của luận văn là tư liệu tham khảo để các nhà hoạch định chính sách pháp luật tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở qua thực tiễn nghiên cứu tại quận Đống
Đa - thành phố Hà Nội
7 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất ở qua thực tiễn áp dụng tại quận Đống Đa - thành phố Hà Nội
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Trang 14Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở; PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở
1.1 Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm đất ở
* Khái niệm đất ở
Đất ở nói riêng và đất nói chung còn gọi chung là đất đai là một loại vật chất có nguồn gốc từ tự nhiên, cùng với vòng tuần hoàn phát triển của thời gian thì con người xuất hiện và tác động vào loại vật chất này, cải tạo chúng và biến chúng
từ sản phẩm của tự nhiên nhưng mang trong mình sức lao động của con người, để chúng cũng được coi là một sản phẩm của xã hội
Theo cách hiểu truyền thống, đất ở thường được coi là vị trí đất nơi mà con người cư ngụ, sinh sống, cũng như là nơi xây dựng những công trình phục vụ cho sinh hoạt đời sống thường nhật Trên thực tế, đất ở không chỉ là nơi con người sinh sống mà còn bao gồm diện tích các loại đất khác được coi là đất ở Đất ở - hay còn gọi là Đất thổ cư cũng là một thuật ngữ được sử dụng nhiều và phổ biến nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật Đất đai ở nước ta
Theo Các Mác viết: "Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện
để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản trong nông, lâm nghiệp" Do vậy, nếu không có đất ở thì không có bất kỳ một nơi nào mà con người có thể cư trú, sinh sống cũng như không thể tiến hành sản xuất ra của cải vật chất để duy trì cuộc sống và duy trì nòi giống đến ngày nay
Dưới góc độ pháp luật, đất ở được xem là một loại tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng và định đoạt của con người Luật Đất đai năm 1993 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: "Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của
Trang 15môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng Trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay!"
Theo quy định tại Luật đất đai 2013, đất ở là để chỉ đất sử dụng cho mục đích sinh sống, cư trú của con người trên đó Đất ở thuộc nhóm đất phi nông nghiệp, bao gồm đất ở đô thị và đất ở nông thôn Đây là loại đất dùng để xây dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ cho đời sống; đất vườn ao gắn liền với nhà
ở trong cùng một thửa đất thuộc khu dân cư (kể cả trường hợp vườn, ao gắn liền với nhà ở riêng lẻ) đã được công nhận là đất ở
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về đất ở như sau: Đất ở
bao gồm tổng thể diện tích các loại đất, có đặc tính sử dụng giống nhau, được nhà nước giao cho người dân sử dụng với vai trò là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho mục đích cư trú, sinh hoạt và xây dựng các công trình phục vụ hoạt động sống thường nhật của con người
* Đặc điểm của đất ở
Thứ nhất, về tính cố định Đất ở cũng như các loại đất đai thông thường, do
vậy nó có tính cố định về vị trí, không thể di chuyển được, tính cố định vị trí quyết định tính giới hạn về quy mô theo không gian và chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nơi có đất Mặt khác, đất đai không giống các hàng hóa khác có thể sản sinh qua quá trình sản xuất do đó, đất đai là có hạn Tuy nhiên, giá trị của đất ở tại các vị trí khác nhau lại không giống nhau Đất ở tại khu vực đô thị có giá trị lớn hơn ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa; đất ở tại những nơi tạo ra nguồn lợi lớn hơn, các điều kiện cơ sở hạ tầng hoàn thiện hơn sẽ có giá trị lớn hơn những đất đai có điều kiện kém hơn Chính
vì vậy, khi vị trí đất ở, điều kiện đất đai từ chỗ kém thuận lợi nếu các điều kiện xung quanh nó trở nên tốt hơn thì đất đó có giá trị hơn Vị trí đất ở hoặc điều kiện đất ở không chỉ tác động đến đời sống cá nhân người dân có quyền sử dụng đất mà còn ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo nên lợi thế thương mại cho một công ty, một doanh nghiệp đồng thời nó còn có ý nghĩa đối với một quốc gia
Trang 16Thứ hai, về sự bất biến và tăng lên về giá trị Một trong những đặc trưng
riêng của loại đất ở này cũng giống như các loại đất đai khác thì đây cũng là một tài sản không hao mòn theo thời gian và giá trị kinh tế của nó luôn có xu hướng tăng lên theo thời gian Với vị trí là một dạng vật chất tự nhiên và cố định, do đó, tác động của con người lên đất ở chỉ nhà những tác động trên bề mặt của diện tích đất
đó Những tác động này không thể làm xói mòn hay biến mất diện tích đất này đi
mà chỉ có thể làm biến dạng hoặc thay đổi lượng đất trên diện tích đất đó Đồng thời, chính những tác động của con người trên diện tích đất ở nhất định cũng đồng thời làm tăng thời lượng sử dụng thực tế của đất và làm cho giá trị của đất cũng vì thế mà tăng lên
Thứ ba, về sự đa dạng Cũng như tất cả các loại vật chất được con người cải
tạo, đất có tính đa dạng phong phú tùy thuộc vào mục đích sử dụng và sự phù hợp với từng vùng miền địa lý, đối với đất đai sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì tính đa dạng phong phú của đất đai do khả năng thích nghi của các loại cây, con quyết định và đất tốt hay xấu xét trong từng loại đất để làm gì, đất tốt cho mục đích này nhưng lại không tốt cho mục đích khác Còn đối với đất ở thì tính đa dạng phong phú của nó phụ thuộc vào tính chất khu vực nơi tồn tại loại đất này mà được gọi là đất ở nông thôn hoặc đất ở đô thị
Thứ tư, về sự liên kết chặt chẽ với con người Đất đai là một tư liệu sản xuất
gắn liền với hoạt động của con người Do đó, đất ở cũng không phải ngoại lệ Con người tác động vào đất đai nhằm thu được sản phẩm để phục vụ cho các nhu cầu của cuộc sống Tác động này có thể trực tiếp hoặc gián tiếp và làm thay đổi tính chất của đất đai có thể chuyển đất hoang thành đất sử dụng được hoặc là chuyển mục đích sử dụng đất Tất cả những tác động đó của con người biến đất đai từ một sản phẩm của tự nhiên thành sản phẩm của lao động Trong điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa, những đầu tư vào ruộng đất có liên quan đến các quan hệ kinh tế - xã hội Trong xã hội có giai cấp, các quan hệ kinh tế - xã hội phát triển ngày càng làm các mâu thuẫn trong xã hội phát sinh, đó là mối quan hệ giữa chủ đất và nhà tư bản
Trang 17đi thuê đất, giữa nhà tư bản với công nhân Đối với đất ở, con người sử dụng sức lao động của mình để chế biến, cải tạo đất đai biến chúng trở thành công cụ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cư trú của mình Chính việc cải tạo này đã tạo nên mối gắn kết bền chặt, lâu dài giữa đất ở và con người Sự gắn kết ấy có thể kéo dài đến suốt cuộc đời người cải tạo
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất đai phong phú hơn rất nhiều, quyền sử dụng đất được trao đổi, mua bán, chuyển nhượng và hình thành một thị trường đất đai Lúc này, đất đai được coi như là một hàng hóa và là một hàng hóa đặc biệt Thị trường đất đai có liên quan đến nhiều thị trường khác và những biến động của thị trường này có ảnh hưởng đến nền kinh tế và đời sống dân cư, đặc biệt
là những người cư trú đến mảnh đất đó
1.1.2 Khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Thông thường, quan hệ pháp luật Đất đai cũng như quyền sử dụng đất của người dân được phát sinh dựa trên cơ sở việc nhà nước trao quyền sử dụng thông qua các phương thức giao đất hoặc cho thuê đất Do vậy, quan hệ pháp luật Đất đai cũng sẽ bị chấm dứt bằng việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành một quyết định hành chính thể hiện mục đích chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với một diện tích đất đai nhất định, đây được coi là biện pháp THĐ do nhà nước tiến hành Thông qua biện pháp này, nhà nước thể hiện rõ quyền định đoạt đất đai với tư cách là chủ thể đại diện cho chủ sở hữu đối với đất đai Theo quy định tại Khoản 11 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013 và đã có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2014 thì: "Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại quyền sử dụng đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai"
Do vậy có thể hiểu, THĐ ở là việc nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất ở và quyền sử dụng đất ở đã giao cho chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật Đất đai Việc THĐ ở này luôn gây ra những hậu quả nghiêm trọng
Trang 18ảnh hưởng tiêu cực đến người bị thu hồi đât Họ sẽ là người bị tước đoạt mất tư liệu sản xuất, nơi để sinh sống cư trú cũng không còn, đời sống thường ngày bị xáo trộn dẫn đến cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn bởi họ đang rơi vào tình trạng không đáp ứng đủ điều kiện sống cơ bản của một con người bình thường Vì vậy, việc THĐ ở khi được nhà nước tiến hành sẽ luôn đi đôi với việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC cho người sử dụng đất trước đó nhằm giúp họ sớm vượt qua khó khăn để ổn định cuộc sống và tìm kiếm chỗ ở mới
Pháp luật về đất đai hiện hành đã quy định rằng, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi Nhà nước tiến hành THĐ để sử dụng vào các mục đích mang tính chất cộng đồng, công cộng như vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hay vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội Thông thường, khi nhắc đến "Thu hồi" chúng ta thường nghĩ đến đây là chế tài, hình phạt dành cho các chủ thể thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật Tuy nhiên việc THĐ này không phát sinh từ lỗi của người sử dụng đất trước đó mà nó được căn cứ vào mục đích của việc thu hồi Trong khi đó, người tiến hành hoạt động thu hồi là cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người sử dụng đất chính là chủ thể chịu thiệt hại từ việc thu hồi này, do
đó, Nhà nước phải có trách nhiệm và phải thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ TĐC
Thuật ngữ "Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư" đã được sử dụng và lưu hành từ rất lâu trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là trong các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai Sau khi Luật Đất đai 1987 ra đời, Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 quy định "Về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác" Thuật ngữ "Đền bù thiệt hại" được sử dụng thay cho thuật ngữ "Bồi thường" Có thể thấy, mặc dù quy định của pháp luật khi ấy không đưa ra sự lý giải rõ ràng, chi tiết về vấn đề này, nhưng cũng có thể hiểu "Đền
bù thiệt hại" khi NNTHĐ là việc bù đắp lại những tổn thất do việc THĐ gây ra, hoàn trả lại một khoản tương đương với giá trị quyền sử dụng đất và công sức mà người sử dụng đất đã bỏ ra trong suốt quá trình tôn tạo, sử dụng đất Thuật ngữ này
Trang 19được tiếp tục sử dụng trong Luật Đất đai 1993, Luật sử đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998 và các Văn bản hướng dẫn thi hành
Đến khi Luật Đất đai 1993 sửa đổi, bổ sung 2001 được Quốc hội ban hành, thuật ngữ "Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư" mới được các nhà làm luật nhìn nhận ra
ý nghĩa và giá trị của nó Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật đất đai
2003, Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ "Về bồi thường,
hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất" cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành khác Sự thay đổi này hoàn toàn hợp lý bởi nội hàm của hai thuật ngữ "Đền bù thiệt hại" và "Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư" không giống nhau Mặc dù đều cùng mục đích và bản chất là bù đắp những thiệt hại đã gây ra, tuy nhiên Đền bù thiệt hại chỉ mang tính bù đắp ngang bằng (đền bù 100% giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi) còn bồi thường, hỗ trợ, TĐC ngoài việc bù đắp giá trị đất và các tài sản trên đât bị thiệt hại, nhà nước còn tiến hành các hoạt động khác nhằm giúp người bị THĐ sớm
ổn định cuộc sống thông qua các biện pháp hỗ trợ và TĐC
Đối với việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở, có thể được giải thích bằng khái niệm: Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là việc Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền sử dụng đất phải bù đắp những tổn hại về đất, tài sản trên đất và những thiệt hại khác có liên quan do hành vi THĐ ở gây ra cho người sử dụng đất tuân theo những quy định của pháp luật Đất đai
Tựu chung lại, bồi thường và hỗ trợ sau khi THĐ ở là những hoạt động đương nhiên được thực hiện giữa một bên là chủ thể thu hồi - Nhà nước và một bên
là chủ thể bị thu hồi - người sử dụng đất phải chịu thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi THĐ của nhà nước gây ra Nhà nước đương nhiên phải có trách nhiệm "Bồi thường" nhằm bù đắp, san sẽ những thiệt hại, tổn thất về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ thông qua việc "thanh toán giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi" Việc làm này đóng vai trò cốt yếu trong việc đề bù những tổn thất của người bị THĐ và nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của người sử dụng đất bị thu hồi Còn "Hỗ trợ" được coi như chuỗi các hoạt động mà Nhà nước
Trang 20thực hiện nhằm giải quyết những hậu quả đối với đời sống của người bị THĐ xảy ra sau khi bồi thường Có thể xem "Hỗ trợ" cũng là một biện pháp mà nhà nước giúp sức cho người dân giải quyết các vấn đề dân sinh, các thiệt hại vật chất và tinh thần ngoài giá trị tài sản đã bị thu hồi, như thay đổi nơi cư trú, thay đổi việc làm, mất ổn định cuộc sống, thiệt hại về mặt tinh thần, Việc thực hiện "Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư" có thể thấy là một trong những đường lối, chủ trương phù hợp với bản chất của một quốc gia của dân, do dân và vì dân Đồng thời đây là chuỗi những hoạt động nhằm làm cho việc THĐ và giải quyết các hệ quả của việc THĐ được thực hiện một cách toàn diện và triệt để nhất
Như vậy: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở là hoạt
động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở những quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở nhằm bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư cho người sử dụng đất trong trường hợp bị thu hồi đất thuộc diện được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
1.1.3 Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Một là: Nhà nước giải quyết hậu quả và các hệ quả liên quan sau hoạt động THĐ
Việc thu hồi đât, đặc biệt là đât ở chỉ được thực hiện bởi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, do đó, khi nhắc đến chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện việc bồi thường này không thể không nhắc đến Nhà nước Sau khi thu hồi đât ở của người dân, một hậu quả nghiêm trọng nhất xảy ra đó là người bị THĐ không còn nơi cư trú, không còn giữ được sự ổn định cũng như tính an toàn cho đời sống thường nhật Bởi vậy, Nhà nước đương nhiên phải đứng ra giải quyết những hậu quả này Những thiệt hại cả về mặt vật chất và tinh thần mà người dân phải gánh chịu sau khi có sự THĐ từ phía Nhà nước, đồng nghĩa với việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC cho người dân sau khi THĐ ở là một khâu tất yếu của quá trình THĐ và giải quyết các vấn đề phát sinh
Người dân có quyền được bồi thường và hưởng các điều kiện sống cơ bản,
về chỗ ở, về việc làm, về đời sống xã hội cũng như đời sống tinh thần Trong quan
Trang 21hệ pháp luật về đất đai, các chủ thể luôn có những quyền và lợi ích nhất định được pháp luật quy định cụ thể trong hiến pháp và pháp luật Đất đai Do vậy, bất kỳ chủ thể nào có sự tác động nhằm xâm hại đến những quyền và lợi ích đó vì bất kỳ mục đích gì, cũng buộc phải có những chế tài, biện pháp nhằm hoàn trả, thanh toán giá trị tương xứng với quyền và lợi ích đã bị xâm hại của chủ thể có quyền Nhà nước cũng không phải là chủ thể loại trừ Khi nhà nước tiến hành hành vi xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân mà cụ thể ở đây là hoạt động thu hồi đât ở thì buộc Nhà nước phải thực hiện các biện pháp khắc phục nhằm hoàn trả lại giá trị tương xứng cho người dân và thực hiện các hoạt động nhằm bù đắp những tổn thất
và thiệt hại xung quanh do việc THĐ gây ra
Hai là: Nhanh chóng ổn định cuộc sống cho người dân bị THĐ nói chung
và ổn định trật tự xã hội nói riêng
Đât đai là một dạng vật chất tự nhiên, bất biến theo thời gian và bất động theo không gian Trong khi đó, mối liên hệ giữa con người và đất đai là vô cùng chặt chẽ, không thể tách rời Con người sinh sống, lao động trên chính khoảng đất đai hiện có và đất đai được coi như một loại tài sản của con người Do vậy, khi có bất cứ thay đổi nào đối với loại tài sản này, sự biến động đối với mỗi con người là
vô cùng lớn, đặc biệt hơn là đối với những biến động trên đất ở, mà cụ thể là việc đất ở bị Nhà nước thu hồi Khi bị nhà nước thu hồi phần đất nơi mình sinh sống, người bị THĐ rơi vào tình trạng không có nơi cư trú Các hoạt động thường nhật thường được diễn ra trên diện tích đất bị thu hồi cũng bị tạm ngừng, người dân mất
đi một khoản tài sản lớn, đời sống mất ổn định, dễ dẫn đến những hậu quả xấu tiêu cực về sau Khi một cá nhân chịu những thiệt hại cả về mặt vật chất và tinh thần mà không được bù đắp xứng đáng, đời sống, tinh thần của người đó bị ảnh hưởng nghiêm trọng, và khi nhiều cá nhân cũng phải chịu những thiệt hại trên mà không
có sự kiểm soát nhất định dễ dẫn đến những bất đồng của nhóm đối tượng này đối với chủ thể đã tiến hành THĐ - Nhà nước, dễ dẫn đến những hành vi tiêu cực cho
xã hội và cộng đồng Bên cạnh đó, việc không bồi thường, hỗ trợ những người
Trang 22bị thu hồi đât sẽ khiến chính họ tiếp chịu những tổn thất và thiệt hại ngày càng nghiêm trọng hơn Khi những người này không còn giữ được sự ổn định và cân bằng cho cuộc sống, đời sống và tâm lý của họ cũng sẽ dễ đẩy họ vào tình cảnh tiêu cực, phải đối mặt với các tệ nạn xã hội, dịch bệnh, sự mất an toàn tính mạng, Đây không phải mục tiêu mà việc THĐ hướng tới - vì lợi ích cộng đồng, vì lợi ích của người dân
Ba là: Đảm bảo cho việc THĐ và giải quyết các vấn đề phát sinh một cách toàn diện, nhanh chóng, nâng cao uy tín của nhà nước trong lòng dân khi Nhà nước tiến hành thực hiện Bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Quyền lực nhà nước được hình hành dựa trên ý chí đồng thuận của người dân Do đó, khi nhà nước thực hiện việc THĐ là đang thực hành quyền lực nhà nước, đồng thời, việc giải quyết các hậu quả của hoạt động thu hồi cũng là việc nhà nước đương nhiên phải làm dưới quyền lực mà nhân dân đã giao phó Khi mục đích của việc THĐ được xác định rõ vì lợi ích cộng đồng đi kèm với việc giải quyết quyền và lợi ích của người dân thì việc nhân dân tin tưởng trao quyền lực cho nhà nước thực hiện là hoàn toàn đúng đắn Khi đó, niềm tin và hy vọng mà người dân đặt vào Nhà nước được củng cố, việc người dân hợp tác, hỗ trợ để nhà nước nhanh chóng, dễ dàng thực hiện THĐ, tiến hành các dự án, chủ trương vì mục đích công cộng là hoàn toàn khả thi Điều này đồng nghĩa với việc công tác THĐ và giải quyết các hậu quả phát sinh cũng được giải quyết một cách toàn diện, nhanh chóng
1.1.4 Phân biệt hỗ trợ, tái định cư với bồi thường khi nhà nước thu hồi đất ở
Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở đều là hậu quả pháp lý được phát sinh do hành vi THĐ của nhà nước trực tiếp gây ra Công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC chỉ được thực hiện sau khi có quyết định THĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việc NNTHĐ ở nhằm các mục đích chung của xã hội, vì lợi ích của cộng đồng, Nhà nước thay mặt cho toàn thể tập thể người dân để thực hiện trách nhiệm này Do vậy, sau khi tiến hành THĐ, nhà nước phải thực hiện các hoạt động không chỉ riêng việc bồi thường mà còn phải thực hiện công tác hỗ trợ, TĐC cho người
Trang 23dân nhanh chóng ổn định cuộc sống mới, giải quyết những khó khăn về đời sống - kinh tế - xã hội của người bị thu hồi
Hoạt động Bồi thường và Hỗ trợ TĐC không phải là một hoạt động chung đồng nhất Đây được coi là hai hoạt động trong cùng một khâu giải quyết hệ quả của việc NNTHĐ ở Và đương nhiên hai hoạt động này có sự khác biệt riêng
Cho đến nay, Luật đất đai 2013 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013 đã quy định rõ tại Khoản 12 Điều 3 về giải thích từ ngữ như sau: "Bồi thường về đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đât" Bồi thường khi NNTHĐ ở được xem như hoạt động
bù đắp ngang bằng (Đền bù 100% giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi) cho người dân Hay có thể hiểu một cách đơn giản rằng Nhà nước khi THĐ của người dân sẽ tiến hành trao trả cho người bị thu hồi một khoản tiền tương đương với giá trị diện tích đất và các tài sản gắn liền trên đất đã bị thu hồi Sự quy đổi ngang bằng này mang tính chất hoàn trả, bù đắp thiệt hại về mặt vật chất để người dân đồng ý và chấp nhận cho việc thu hồi được diễn ra
Ngoài việc bồi thường thiệt hại sau hoạt động THĐ, nhà nước đồng thời cũng phải tiến hành các chính sách, biện pháp nhằm hỗ trợ, TĐC cho người dân sau khi bị THĐ ở Trong đời sống dân sự cũng như trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội, một cộng đồng vì lợi ích chung luôn đặt mục tiêu "tương thân tương ai" làm tôn chỉ cho hành động Tinh thần đoàn kết của cả cộng đồng được thể hiện thông qua sự hỗ trợ cả về mặt vật chất và tinh thần cho một đối tượng hoặc một nhóm đối tượng trong xã hội để họ có thể nhanh chóng ổn định đời sống, sớm vượt qua những khó khăn hay những rủi ro mà họ đang phải đương đầu Đây là một nét đẹp văn hóa của người dân Việt Nam ta từ xưa đến nay, đó là sự thể hiện tính nhân văn, nhân đạo với đồng bào, dân tộc Đây được xem như là một hoạt động hỗ trợ Như vậy, ta có thể hiểu hỗ trợ là sự trợ giúp, giúp đỡ của cả cộng đồng nhằm san sẻ, hay cùng nhau góp phần giảm thiểu sự rủi ro, sự khó khăn mà một người hoặc một nhóm người đang phải gánh chịu trong cuộc sống Hoạt động này được thực hiện
Trang 24dưới hai hình thức chính: Hỗ trợ về mặt vật chất (tiền của hoặc các hiện vật), và hỗ trợ về mặt tinh thần (động viên, thăm hỏi, an ủi, )
Trong lĩnh vực pháp luật, và đặc biệt là pháp luật Đất đai, thuật ngữ hỗ trợ, TĐC nói riêng và hoạt động hỗ trợ nói chung được sử dụng đóng vai trò rất quan trọng trong các quan hệ pháp luật Đất đai, đặc biệt là hoạt động THĐ ở của Nhà nước Khi nói đến việc NNTHĐ ở, không thể không nhắc đến vấn đề hỗ trợ, TĐC cho người dân, bởi đất đai là tư liệu sản xuất gắn liền với đời sống sinh hoạt và giá trị của loại đất này vô cùng lớn, việc THĐ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng và tiêu cực đến đời sống sinh hoạt của người dân Do vậy, khi nhà nước thu hồi, người sử dụng
sẽ bị mất nơi cư trú, cuộc sống lâm vào hoàn cảnh khó khăn như không có nơi để ở, không có đủ các điều kiện sống cơ bản của một con người Để có thể khắc phục những thiệt hại đã gây ra cho người dân, Nhà nước buộc phải thực hiện việc hỗ trợ, giúp đỡ người dân bị THĐ thông qua các hoạt động như cấp kinh phí để di dời đến nơi ở mới, đào tạo nghề, bố trí nơi làm việc mới
1.2 Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
1.2.1 Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cũng giống như bất cứ các hoạt động, hành vi khác xuất hiện trong đời sống dân sự, luôn cần một khuôn khổ và sự điều chỉnh nhất định thông qua những quy phạm chung mang tính ràng buộc Sự điều chỉnh này được thực hiện bởi các quy phạm pháp luật nhằm định hướng các hoạt động đi theo một phương hướng đảm bảo một trật tự chung thống nhất phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của các bên liên quan và lợi ích của Nhà nước Đối với hoạt động liên quan đến việc NNTHĐ ở, pháp luật cũng luôn có sự điều chỉnh bằng hàng loạt các quy phạm quy định về nguyên tắc, điều kiện, nội dung và phương thức, quy trình, thủ tục tiến hành THĐ và giải quyết các vấn đề hệ quả nảy sinh, trong đó có công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC cho người dân sau khi bị THĐ
Trang 25Các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là một phần quan trọng của pháp luật Đất đai Việt Nam nói chung và pháp luật về THĐ, thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói riêng Các quy định này được Nhà nước thực hiện bằng việc tác động điều chỉnh vào chính hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ bồi thường, hỗ trợ, TĐC, nhằm giải quyết hài hòa các lợi ích giữa các chủ thể tham gia mối quan hệ này
Tóm lại, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất ở là tổng hợp các quy phạm quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, nhằm giải quyết hài hòa các lợi ích của Nhà nước, lợi ích của chủ đầu tư và của người bị thu hồi đất ở
Với vai trò của mình, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
có những điểm đặc thù riêng trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai
Cụ thể như sau:
- Đất đai theo quy định của pháp luật Việt Nam được xem là tài sản mang tính sở hữu tập thể, là tài sản chung của cả cộng đồng dân tộc và Nhà nước được
cử ra làm đại diện hợp pháp của chủ sở hữu Bởi vậy, việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC
khi NNTHĐ chịu sự chi phối của hình thức sở hữu toàn dân về đất đai Vì vậy, pháp luât về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ cho phép Nhà nước được toàn quyền định đoạt trong việc THĐ phục vụ cho mục đích chính đáng và thực hiện các hoạt động giảm thiểu, ngăn ngừa, khắc phục thiệt hại do việc THĐ gây ra
- Những tổn thất nảy sinh liên quan đến hoạt động THĐ ở không chỉ dừng lại ở những thiệt hại về vật chất, về giá trị tài sản bị thu hồi trên thực tế mà còn liên quan đến những thiệt hại phi vật chất mà người dân phải gánh chịu khi NNTHĐ ở tại thời điểm tiến hành thu hồi và thời gian dài sau đó Bởi việc THĐ ở dẫn đến sự
biến động rất lớn trong đời sống của người bị thu hồi, người dân không còn nơi cư trú, không còn tiến hành được những hoạt động sinh sống, sinh hoạt, kinh doanh thường ngày, những điều kiện sống cơ bản không được đáp ứng đầy đủ do đó,
Trang 26những tác động đến tâm lý của người dân là không hề nhỏ, và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở được xem như hoạt động làm dung hòa lợi ích chung của cộng đồng và lợi ích cá nhân của người bị THĐ
Điều này được thể hiện rõ thông qua mục đích của việc thu hồi và các biện pháp khắc phục thiệt hại mà Nhà nước tiến hành Mục đích của việc THĐ ở khi Nhà nước thực hiện làm nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đời sống của người dân hướng tới chất lượng cuộc sống cao hơn trong tương lai, đó
là vì lợi ích chung của cộng đồng Để thực hiện được mục tiêu trên, Nhà nước phải tiến hành THĐ, và để đảm bảo quyền lợi cho những người dân bị THĐ ở cho mục đích nêu trên, Nhà nước tiến hành hồi thường, hỗ trợ, TĐC giúp cho người dân được đền bù xứng đáng với thiệt hại phải chịu và sớm lấy lại được cuộc sống ổn định
Tựu chung lại, pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, TĐC khi nhà nước THĐ luôn liên quan đến những vấn đề hết sức nhạy cảm
Nó tác động trực tiếp đến đời sống của người dân không chỉ đời sống vật chất mà cả đời sống tinh thần, và tạo ra những biến động lớn, do vậy sức thu hút sự quan tâm của người dân là vô cùng lớn, đặc biệt là những người thuộc trong các trường hợp
bị NNTHĐ Do đó, khi nhà nước thực hiện công tác THĐ cần tránh các tác động tiêu cực đến tâm lý, tinh thần của người dân, giảm thiểu các mâu thuẫn, tranh chấp
và các nguy cơ mất ổn định trật tự chính trị - xã hội tiềm ẩn
1.2.2 Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
* Về nguyên tắc bồi thường
Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ trong Luật Đất đai năm 2003 trên thực tế đã không thể thể chế, truyền tải hết các quy định mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn THĐ, bồi thường, hỗ trợ, TĐC tại các địa phương, các bộ, ngành Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi
Trang 27NNTHĐ thành 02 điều riêng biệt (Điều 74 và Điều 88) Trong đó, quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi NNTHĐ để các bộ, ngành, địa phương và người THĐ căn cứ vào đó thống nhất thực hiện
Nguyên tắc này được hiểu theo quy định của pháp luật:
- Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường
- Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất
- Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật"
Nguyên tắc trên thể hiện khi nhà nước lấy đi phần lợi ích của người dân mà
có đầy đủ điều kiện được bồi thường thì Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại
Thứ nhất, người sử dụng đất (sáu đối tượng quy định tại Điều 75) nếu có đủ
các điều kiện quy định như Luật định sẽ được Nhà nước bồi thường theo thiệt hại thực
tế họ mắc phải khi gặp phải chính sách THĐ của Nhà nước Điều đó thể hiện sự bình đẳng của nhà nước đối với người sử dụng đất, họ được đối xử như nhau trên pháp luật
Thứ hai, việc bồi thường sẽ ưu tiên bồi thường băng đất rồi sau đó đến trả
tiền (trừ một số trường hợp khác muốn lấy tiền hay buộc lấy đất) Khi Nhà nước lấy đất thì bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không có đất cùng loại thì được bồi thường bằng tiền với giá trị tương đương Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm coi đất đai là tài sản có thể được trả thay bằng tiền bồi thường để mua được một thửa đất tương đương Quy định này cũng nhằm ngăn ngừa tình trạng người bị THĐ đòi bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ việc chuyển mục đích sử dụng đất hoặc do sự đầu tư của Nhà nước mang lại
Trang 28Thứ ba, việc bồi thường phải dân chủ, khách quan, tức là phảm đảm bảo khi
người dân bị THĐ mà có đủ các điều kiện thì phải được bồi thường một cách nhanh chóng, hợp lý, công khai, công bằng như những người khác và phải tuân thủ theo quy định của pháp luật
Nguyên tắc này được hiểu theo quy định của pháp luật:
- Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất
bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường
- Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại"
Đây là một điểm mới của Luật đất đai 2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi thường về đất không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và tư liệu sản xuất Trên thực tế, ngoài ý nghĩa tài sản, đất đai còn là tài nguyên thiên nhiên, là nguồn sống của con người; do đó khi THĐ ngoài việc bồi thường giá trị của đất còn phải bồi thường thiệt hại về tài sản phục vụ sản xuất, kinh doanh cho người dân là phù hợp
* Về nguyên tắc hỗ trợ, tái định cư
Là một điểm mới của Luật Đất Đai 2013, Nhà nước đã quy định một cách
rõ ràng các nguyên tắc hỗ trợ khi NNTHĐ: cụ thể Khoản 1 Điều 83 Luật Đất đai
2013 quy định;
" Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
a, Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngời việc được bồi thường theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;
b, Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật"
Thứ nhất, cũng giống như ở bồi thường, khi NNTHĐ của người dân ngoài
việc phải bồi thường lại phần của họ bị mất còn phải hỗ trợ cho người dân để họ sớm khắc phục tình hình, nhanh chóng ổn định đời sống Nguyên tắc này hoàn toàn phù
Trang 29hợp và sự quan tâm của Nhà nước với người dân bị mất đất Tại khoản 2 Điều 83 Luật này cũng quy định các khoản hỗ trợ khi NNTHĐ như: hỗ trợ ổn định đời sống
và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp THĐ nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; THĐ ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ TĐC đối với trường hợp THĐ ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; và các hỗ trợ khác
Thứ hai, một trong các hình thức hỗ trợ là hỗ trợ về chỗ ở, TĐC
Nhằm khắc phục tình trạng một số khu vực TĐC chất lượng còn thấp, không đồng
bộ về cơ sở hạ tầng, chưa đảm bảo tiêu chí có điều kiện phát triển bằng hoặc tố hơn nơi ở cũ Nhiều địa phương chưa lập khu TĐC chung cho các dự án tại địa bàn nên nhiều dự án chưa có khu TĐC đã thực hiện THĐ ở, thậm chí có những dự án mà người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn chưa được bồ trí vào khu TĐC, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về lập và thực hiện dự án TĐC,
bố trí TĐC cho người bị THĐ ở mà phải di chuyển chỗ ở
Thứ ba, tính dân chủ, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của
pháp luật Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường cũng như hỗ trợ khi NNTHĐ đều đề cập tới tính bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai minh bạch, dân chủ, đúng pháp luật Đây là một đòi hỏi khách quan trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật về bồi thường hỗ trợ TĐC khi NNTHĐ, vừa là cơ chế để kiểm soát hoạt động này Bởi tất cả nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục…bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ đều do pháp luật quy định [20]
1.2.3 Nội dung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Một là: điều kiện, đối tượng bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cũng cần phải quy định rõ ràng, chi tiết các trường hơp được nhà nước bồi thường, hỗ trợ, TĐC sau khi người dân bị THĐ ở
Trang 30Pháp luật Đất đai năm 2013 quy định rõ những trường hợp được bồi thường
và những trường hợp không được bồi thường khi NNTHĐ, xem xét và phân định tình trạng pháp lý của mảnh đất căn cứ vào nguồn gốc sử dụng và thời điểm sử dụng đất, từ đó quy định bồi thường cho phù hợp Trường hợp đất đó đáp ứng những điều kiện theo quy định của pháp luật thì thu hồi và đặt ra vấn đề bồi thường Nếu không đáp ứng thì không đặt ra vấn đề bồi thường
Luật Đất đai năm 2013 phân ra 4 trường hợp THĐ rất rõ ràng từ Điều 61 đến Điều 65 như: THĐ vì mục đích quốc phòng an ninh; THĐ để phát triển kinh tế
xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; THĐ do vi phạm pháp luật về đất đai; THĐ
do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người Theo các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các Nghị định hướng dẫn Nhà nước chỉ xem xét việc bồi thường, hỗ trợ đối với THĐ vì mục đích quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
Ngoài việc bồi thường, người sử dụng đất còn được xem xét hỗ trợ, TĐC trong những trường hợp cụ thể
Hai là: Giá đất bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Giá đất được hiểu là mức bồi thường, là khoản tiền mà Nhà nước chi trả cho người dân khi bị THĐ thuộc trường hợp được bồi thường theo quy định của pháp luật Giá đất tính bồi thường được tính theo khung giá đất do Nhà nước quy định tương ứng với loại đất bị thu hồi, tính ở thời điểm THĐ
Luật Đất đai năm 2013 quy định hai loại giá đất, đó là giá đất theo "bảng giá đất" và "giá đất cụ thể" Căn cứ Điều 114 Luật Đất đai năm 2013 Bảng giá đất được xây dựng định kỳ 05 năm một lần và công bố công khai vào ngày 01/01 của năm đầu kỳ Do tính chất ổn định của bảng giá đất nên nó được sử dụng làm căn cứ
để tính các nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất Giá đất cụ thể được xác định ở một thời điểm nhất định, phải dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai Giá đất cụ thể được xác định làm căn cứ tính tiền bồi thường khi NNTHĐ
Trang 31Đối với việc xác định giá trị để bồi thường, hỗ trợ cho người dân, pháp luật cần có một định mức và khung giá trị cơ bản để đảm bảo được tối thiểu giá trị thiệt hại đã gây ra cho người dân Tuy nhiên, việc xác định giá để bồi thường ngoài việc tuân thủ theo định mức, khung mà pháp luật quy định, nhà nước cũng cần xem xét đến các yếu tố thực tiễn ảnh hưởng đến giá và giá trị mà người dân đáng được hưởng Trên thực tế giá trị đất ở trên thị trường luôn lớn hơn giá khung mà nhà nước quy định, do đó, để đảm bảo hài hòa lợi ích các bên, pháp luật chỉ nên xác định rõ giá đất ở theo khung và theo định mức đã định là mức tối thiểu dành cho người dân và cần có quy định về việc tham khảo cũng như so sánh với giá đất ở trên thị trường để đưa ra hạn mức tối ưu đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng cho người dân
Ba là: Phương thức bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Phương thức bồi thường được hiểu là cách thức mà Nhà nước thực hiện
việc bồi thường khi người sử dụng đất bị thu hồi
Có hai hình thức bồi thường cơ bản đó là bồi thường bằng đất ở - chính loại đất có chung mục đích sử dụng với diện tích đất ở bị thu hồi Hoặc bồi thường bằng hình thức trao tiền mặt với giá trị tương đương giá trị đất ở bị thu hồi theo khung giá pháp luật quy định Tuy nhiên, việc xác định tiến hành bồi thường, hỗ trợ theo phương thức nào còn phải phụ thuộc vào ý chí của người bị THĐ và các yếu tố về nguồn ngân sách, nguồn đất dự trữ của các đơn vị địa phương Pháp luật về lĩnh vực này cần cho phép người dân lựa chọn các phương thức thanh toán trong phạm vi quyền của mình Trong các trường hơp nhất định, người dân bắt buộc phải nhận bồi
thường, hỗ trợ bằng một trong các phương thức theo quy định của pháp luật đã định
Bốn là: Thủ tục bồi thường hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Trình tự thủ tục bồi thường hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là những vấn đề tổng quát, mang tính nguyên tắc Trên cơ sở đó các văn bản hướng dẫn thi hành có những quy định cụ thể về từng bước, lập, bổ sung, thẩm định, thực hiện phương án bồi thường cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bồi thường khi NNTHĐ ở
Trang 32Tuy vậy, các quy định của pháp luật có được thực thi hay không còn phụ thuộc nhiều vào chính sách của từng địa phương cũng như trình độ năng lực, trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ thực thi pháp luật Đây là lĩnh vực nhạy cảm có liên quan trực tiếp tới quyền lợi của người dân, do vậy cũng tồn tại khá nhiều đơn thư, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này Có thể nói, nếu thủ tục hành chính đảm bảo khách quan, minh bạch, dân chủ thì công tác bồi thường hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cũng được thực thi hiệu quả
1.2.4 Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở và các yêu cầu đặt ra
* Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
- Xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là người đại diện
Toàn dân có quyền sở hữu đối với đất đai, nhà nước là người đại diện là chủ
sở hữu đã thành nguyên tắc cơ bản của Luật Đất đai năm 2013 Chính vì vậy, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật để quy định rõ quyền và nghĩa vụ đối với Nhà nước và người sử dụng đất trong mối quan hệ quản lý và sử dụng đất đai Xác định điều kiện, đối tượng, trường hợp… bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai này chính là trọng tâm để các quy phạm pháp luật về đât đai ra đời, đặc biệt là các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ ở Do vậy, Nhà nước có toàn quyền quyết định các vấn đề trong quản lý hành chính về đất đai, như ngay từ việc giao đất, trao quyền sử dụng đất cho người dân đến việc quyết định THĐ và tiến hành bồi thường, hỗ trợ, TĐC sau khi thu hồi Như vậy, có thể thấy, việc NNTHĐ dưới quyền năng của mình không phải là việc đem quyền sở hữu về tay mình, mà chỉ đơn thuần là việc nhà nước đại diện cho toàn dân thu hồi lại một diện tích đất ở của người dân để phục vụ cho mục đích lợi ích chung của chủ sở hữu là toàn dân Tuy nhiện, chính vì việc
Trang 33Nhà nước tự mình thực hiện, tự mình ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh, nên sự điều chỉnh của pháp luật này cần được minh bạch, công bằng để đảm bảo việc Nhà nước không xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, cũng như quá trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ ở thì Nhà nước cần phải thực hiện theo đúng quy trình mà luật định, không làm thất thoát tiềm lực kinh tế quốc gia và đảm bảo mục tiêu cuối cùng vì lợi ích chung cộng đồng
- Xuất phát từ vai trò của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ
ở được thể hiện rõ nét trong đời sống dân sự
Trước hết, đối với yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ, đặc biệt là pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là vấn đề không thể thiếu trong hoạt động quản lý của Nhà nước về đất đai Các quan hệ pháp luật về đất đai, đặc biệt là đất ở trong đời sống dân sự thông thường luôn là những vấn đề hết sức tế nhị và nhạy cảm bởi sự nhạy cảm này được thể hiện rõ nét qua tác động của những hành vi hành chính của nhà nước với loại quan hệ này đồng thời thể hiện qua sự biến động liên tục về quyền sử dụng của người dân Đặc biệt khi Nhà nước tiến hành THĐ ở của người dân
- Xuất phát từ những biến động lớn trong đời sống người dân khi bị THĐ ở
Hành vi THĐ ở sẽ tạo nên biến đông rất lớn cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân nói riêng, cũng như sự ổn định chính trị và an toàn của
xã hội nói chung Việc nhà nước tiến hành THĐ ở thường mang tính tiêu cực, bởi
nó khiến người dân có đất ở bị thu hồi lâm vào tình trạng mất cân bằng cuộc sống, mất đi các điều kiện sống cơ bản vốn có, đẩy người ta vào hoàn cảnh khó khăn, thiệt hại Do đó, nếu Nhà nước không có trách nhiệm giải quyết một cách đầy đủ, nhanh chóng và ổn thỏa những thiệt hại do hành vi thu hồi đât ở gây ra cho người dân thì việc này sẽ tạo nên những mâu thuẫn, bất đồng trong chính tâm lý, tư tưởng của người bị THĐ ở, và khi thiệt hại này được thực hiện đồng loại với nhiều chủ thể trên một quy
mô lớn sẽ tạo nên một vùng, một nhóm người chịu thiệt hại và có sự bất đồng quan
Trang 34điểm với chính chính quyền nhà nước, điều này gây ra nhiều nguy cơ chính trị - xã hội tiềm ẩn mà nhà nước khó có thể kiểm soát được Do vậy, pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cần được ra đời để cân bằng lại lợi ích giữa cộng đồng với lợi ích cá thể riêng biệt, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho công dân và giảm thiểu các nguy cơ xấu tác động tới chính trị - xã hội đang tiềm ẩn bên trong
- Xuất phát từ việc đảm bảo yêu cầu đặc biệt về đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người có đất bị thu hồi
Ngoài ra, cơ chế quản lý của nhà nước về đất đai luôn là một cơ chế riêng
biệt và cơ chế hết sức nhạy cảm và ảnh hưởng không nhỏ đến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở Với cơ chế mở cửa nền kinh tế thị trường như hiện nay, các giao dịch dân sự nói chung được khuyến khích đẩy mạnh, và các giao dịch dân sự về đất đai cũng được nới rộng, cho phép người dân được tiến hành giao dịch một cách tự do, nhanh chóng Với cơ chế này, quyền tự do giao dịch, quyền sử dụng đất ở trong khuôn khổ của pháp luật phát triển một cách mạnh mẽ, do đó, các vấn đề liên quan đến cung - cầu, giá trị của đất ở cũng ngày một tăng lên nhanh chóng Giá trị các giao dịch liên quan đến đất đai là vô cùng lớn, tạo nên hiệu quả kinh tế cao cho cả người dân và kinh tế đất nước Điều này là sự đột phá lớn so với thời kỳ quan liêu bao cấp trước đây, khi mà người dân không được phép tự mình chuyển nhượng, định đoạt quyền sử dụng đất Do vậy, khi Nhà nước tiến hành THĐ
sẽ tác động tiêu cực rất lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân Điều này dẫn đến yêu cầu đặc biệt cần thiết về việc đảm bảo các quyền, lợi ích chính đáng của người bị THĐ ở, và nó phải được điều chỉnh bằng pháp luật, mang tính ràng buộc chặt chẽ chung đối với cả nhà nước, nhà đầu tư và người bị THĐ, bởi vậy, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở chính là sự bảo đảm tối ưu cho người dân
- Xuất phát từ quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế
Yêu cầu cốt yếu của quá trình hội nhập mở của nền kinh tế quốc dân hiện này ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ ở Quá trình hội nhập, mở cửa, hợp tác với các quốc gia trên thế giới là
Trang 35tiền đề cho nên kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ Các chương trình, dự án, giao dịch thương mại quốc tế, dân sự quốc tế ngày được thực hiện nhiều hơn, các yêu cầu của các chủ thể nước ngoài cũng ngày một lớn Khi Việt Nam tham gia vào sân chơi lớn của quốc tế là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam bắt buộc phải tuân thủ theo những cam kết, quy tắc, quy định của tổ chức này một cách nghiêm chỉnh Việt Nam phải đảm bảo được các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong kinh doanh, nguyên tắc công khai, minh bạch, cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một đầu mối, và thống nhất áp dụng chung các quy trình cho cả các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong việc GPMB
để thực hiện các dự án đầu tư, cơ chế một giá trong quá trình bồi thường, Chính vì vậy, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cũng có sự sửa đổi, bổ sung phải phù hợp với các quy tắc chung của tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên
* Những yêu cầu đặt ra với pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
Một là: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở phải đảm bảo tính pháp chế XHCN
Điều này đặt ra những yêu cầu cấp thiết dành cho pháp luật lĩnh vực này Xây dựng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là cần thiết, tuy nhiên sự cần thiết này còn phải đảm bảo các yêu cầu mà xã hội đặt ra Trước hết, việc xây dựng và phát triển pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cần đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa mà hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã quy định Để đảm bảo tính pháp chế này, các quy định trong pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ TĐC khi NNTHĐ ở phải xác định được rõ mục tiêu là đảm bảo quyền và lợi ích mà chế độ xã hội chủ nghĩa đặt ra, đảm bảo hài hòa quyền và lợi ích hợp pháp giữa người dân bị THĐ cũng như lợi ích chung của cộng đồng dân tộc
Hai là: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở phải đảm bảo công bằng, khách quan
Việc xây dựng các quy phạm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ ở cần đảm bảo được tính công bằng, khách quan Sự công bằng phải được
Trang 36thể hiện qua việc quyền lợi của tất cả các hộ dân có đất ở bị thu hồi phải được bồi thường, hỗ trợ như nhau, quyền và lợi ích của người dân phải được đảm bảo không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào mà không được đền bù, bù đắp Bên cạnh đó, sự công bằng còn phải được thể hiện qua việc cân bằng, tạo sự hài hòa giữa lợi ích của ba bên giữa Lợi ích công cộng đại diện là nhà nước, cùng người dân bị THĐ cũng như lợi ích của chủ đầu tư Sự cân bằng này là vô cùng cần thiết bởi nó đảm bảo được tối đa nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, cũng như đảm bảo tránh được như vi phạm pháp luật phát sinh trong quá trình bồi thường, hỗ trợ và TĐC
Ba là: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở phải đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở cũng cần đảm bảo được các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan Để đảm bảo mục tiêu cao nhất là đảm bảo quyền và lợi ích cho người dân bị THĐ, các bên đều có các quyền hạn và nghĩa vụ liên quan nhằm thực hiện hoặc được thực hiện các hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở Đối với người dân, bên cạnh việc được hưởng các chính sách, các giá trị thiệt hại được đền bù, hỗ trợ, người dân cũng có những nghĩa vụ nhất định đối với cộng đồng, với nhà nước và trước hết là đối với quy trình, thủ tục để được nhận bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Tóm lại, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là một chế định pháp luật quan trọng và không thể thiếu Pháp luật được xây dựng đúng đắn và nghiêm minh thì quyền và lợi ích của người dân sẽ được đảm bảo, hoạt động quản lý của nhà nước đặc biệt trong lĩnh vực đất đai cũng sẽ giảm thiểu đi nhiều gánh nặng
Kết luận chương 1
Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng
là yếu tố mang tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và các sinh vật khác trên trái đất Đặc biệt, đối với loại đất ở, một trong những loại đất gắn chặt với đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân Do vậy, đối với bất kỳ tác động nào vào loại tư liệu sản xuất này cũng đều ảnh hưởng và tác động nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người sử dụng
Trang 37Qua nghiên cứu chương 1, tác giả luận văn đã giải quyết một cách rõ ràng hơn, mạch lạc hơn khi đưa ra quan điểm của riêng bản thân về khái niệm, đặc điểm,
ý nghĩa vấn đề bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là vấn đề có tính nhạy cảm, bởi đất đai được coi là tài sản có giá trị lớn đối với người sử dụng đất, hơn nữa đây là vấn
đề liên quan tới quyền và lợi ích của nhiều đối tượng là người sử dụng đất, do vậy
dễ dẫn đến mâu thuẫn, khiếu nại, khiếu kiện Chính vì lí do đó sự điều chỉnh bằng pháp luật về Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở là cần thiết và đặt ra những yêu cầu đối với pháp luật Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật về bồi thường hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là người đại diện Xuất phát từ vai trò của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở được thể hiện rõ nét trong đời sống dân sự Xuất phát từ những biến động lớn trong đời sống người dân khi bị THĐ ở Xuất phát từ việc đảm bảo yêu cầu đặc biệt về đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người có đất bị thu hồi Xuất phát từ quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế
Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở phải đảm bảo những yêu cầu như sau: Một là: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở phải đảm bảo tính pháp chế XHCN Hai là: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở phải đảm bảo công bằng, khách quan Ba là: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở phải đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan
Nội dung của pháp luật bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở gồm những nội dung sau:
- Điều kiện, đối tượng bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
- Phương thức bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
- Giá đất bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
- Thủ tục bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ ở
Trang 38Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1 Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
2.1.1 Sơ lược lịch sử pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở
a) Giai đoạn trước năm 1993
Trong khoảng thời gian trước năm 1945, Chinh sách bồi thường thiệt hại khi Nha nước THĐ ở Việt Nam gắn liền với việc hình thành, duy trì tổn tại các triều đại phong kiến Ở mỗi kiểu Nhà nước các hình thức sở hữu đất đai luôn được giai cấp thống trị chú trọng Bắt đầu từ thời vua Gia Long, Nhà nước thực sựthừa nhận quyền sở hữu ruộng đất không chỉ thuộc về Nhà nước mà cả sở hữu tư nhânvà cả sở hữu làng xã Việc đền bù theo mức thực sự là sự đền bù trên cơ sở thừa nhậnquyền
sở hữu tư nhân, tuy nhien, sở hữu Nhà nước bao giờ cũng lấn át sở hữu làng xã Chính sách đền bù được thực hiện rất nguyên tắc và chặt chẽ
Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, chúng ta tiến hành xóa bỏ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân Hiến pháp năm 1959, nhà nước thừa nhận ba hình thức sở hữu đất đai bao gồm sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhưn, sở hữu tập thể Khi tiến hành THĐ Nhà nước tiến hành điều chỉnh ruộng đất hoặc nhượng lại ruộng đất cho người bị trưng dụng sẽ được đền bù từ 1 đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng bị trưng dụng Thực
tế trong thời kỳ nay, quan hệ đất đai trong đền bu chủ yếu là thoả thuận sau đó thống nhất giá trị đền bù mà không cần có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phương án đền bù hay ban hành giá đền bù
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, ngày 01/07/1980 Hội đồng Chính phủ ra quyết định
Trang 39số 201/CP về việc: "Không được phát canh thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc ban nhượng đất dưới bất kỳ hình thức nào, không được dùng để thu những khoản lợi không do thu nhập mà có, trừ trường hợp do Nhà nước quy định" Quan hệ đất đai thời kỳ nay đơn thuần chỉ là quan hệ "Giao-thu" giữa Nhà nước và người sử dụng
Ngày 31/5/1990, Hội đồng bộ trưởng ban hành Nghị định 186/HĐBT về việc đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang mục đích khác, tại điều 1 của Nghị định quy định rõ mọi tổ chức, cá nhân được giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào mục đích khác phải đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước Tiền bồi thường tài sản trên mặt đất và tài sản trong lòng đất cho chủ sửdụng không thuộc các khoản đền bù thiệt hại về đất Khung mức giá đền bù thiệt hại do Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thanh phố, đặc khu trực thuộc trung ương quy định cụ thể, mức đền bù đối với từng quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh sát với giá đất ở địa phương nhưng không được thấp hơn hay cao hơn mức quy định của Chính phủ
Điều 23 Hiến phap năm 1992 quy định: "Tài sản hợp pháp của cá nhan, tổ chức không bị quốc hữu hóa, trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh, lợi íchquốc gia mà Nhà nước trưng mua hay trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân haytổ chức theo thời giá thị trường" Trên cơ sở Hiến pháp năm
1992, thừa kế có chọnlọc Luật đất đai năm 1988, Luật đất đai năm 1993 ra đời với những đổi mới quan trọng, đặc biệt với nội dung THĐ phục vụ lợi ích cộng đồng và đền bù thiệt hại khi NNTHĐ Luật đất đai quy định rõ hơn quyền của người được giao đất gồm có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp Đồng thời Chính phủ quy định khung giá cho từng loại đất, từng vùng và theo thời gian
Trong suốt thời gian nay, Nhà nước ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật về quản lyđất đai Trên cơ sở, cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992, Luật dân sự, cùng với nhiều Nghị định, Chỉ thị, Thông tư về vấn đề đền bu, TĐC Tiêu biểu là Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp
Trang 40b) Giai đoạn sau năm 1993
Để cụ thể hóa các quy định trong Luật đất đai 1993, các quy định về đền bù, bồi thường hỗ trợ bổ sung phục vụ công tác THĐ cũng được quy định rõ tại các thông tư, nghị định được ban hành Nghị định 02/CP ngay 15/01/1994 về công tác giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đinh, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vao mục đích lâm nghiệp Nghị định 87/CP ngay 17/8/1994 quy định khung giá các loại đất Nghị định 89/CP ngay 17/8/1994 quy định về việc thu tiền sử dụng đất va lệ phi địa chính Nghị định 90/CP ngày 17/8/1994 ban hanh điều lệ quản ly quy hoạch đô thị Nghị định 45/CP ngay 3/8/1996 đưa ra tiêu chuẩn hợp phap về sở hữu nha ở và quyền sử dụng đất ở đô thị Điển hình cho các văn bản pháp lý về đền bù và TĐC là Nghị định 90/CP và Nghị định 22/1998/NĐ-CP
Với sự ra đời của Luật đất đai sửa đổi bổ sung 2001, thuật ngữ đền bù khi NNTHĐ đã được thay thế bằng thuật ngữ bồi thường cho phù hợp hơn Trong trương hợp thật cần thiết, NNTHĐ đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị THĐ được bồi thường hoặc hỗ trợ,
Ngày 26/11/2003 Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật đất đai mới Luật đất đai 2003 này quy định về THĐ và bồi thường khi NNTHĐ tại Mục 4 Chương II Để bổ sung cho các quy định này một số văn bản hướng dẫn cũng ra đời, tiêu biểu như: Nghị Định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của chính phủ về Hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ Sau 10 năm
áp dụng, Luật đất đai 2003 đã đóng góp tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước Nhìn chung, việc THĐ đã đáp ứng được mục tiêu, nhu cầu phát triển chung của toàn xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự xã hội, đảm bảo được quyền và lợi ích cơ bản cho người bị THĐ ở
Tuy nhiên, trên thực tế phát sinh các vướng mắc thức thời mà Luật này không điều chỉnh được, Luật đất đai 2013 được ban hành, nhằm bổ sung, giải quyết