Ngu ồn gốc của Nho giáo - Nho giáo hay đạo Khổng là một học thuyết chính trị - xã hội có ngu ôn gốc từ Trung Quốc do Khổng Tử hay Khổng Phu Tử - đêxướng và được các môn đ ôcủa ông phát t
Trang 11 Ngu ôn gốc và quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam
1.1 Ngu ồn gốc của Nho giáo
- Nho giáo hay đạo Khổng là một học thuyết chính trị - xã hội có ngu ôn gốc từ Trung Quốc do Khổng Tử (hay Khổng Phu Tử) - đêxướng và được các môn đ ôcủa ông phát triển với mục đích xây dựng xã hội hài hòa, con ngươi biết lế phải, đạo lý, nhà nước thịnh vượng
-Ở Trung Quốc, Nho giáo ra đời vào thời Tây Chu đặc biệt là có sự đóng góp của Chu Công Đán hay Chu Công Đến thời Xuân Thu, giai đoạn từ năm 771 đến năm 476 TCN, Khổng Tử đã phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và truy ân bá tư tưởng nay Ông đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh g ân Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kính Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc (v êsau bị thất lạc) => còn 5 cuốn và được gọi
là Ngũ kinh
- Dén thoi nha Hán, trong tri âu đại của Hán Vũ Đế trở thành hệ tư tưởng độc tôn, chính thống cả v`êchính trị và đạo đức của Trung Hoa Sau một khoảng thởi gian, Nho giáo đã phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc đến n`ân văn hóa của các nước thuộc khu vục Đông Nam Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Tri ân Tiên và Việt Nam
- Sau khi Khổng Tử mất thì học trò của ông cùng nhau soạn ra cuốn Luận ngữ theo lời dạy của Khổng Tử Học trò xuất sắc nhất của Khổng tử, Tăng Sâm cũng soạn ra cuốn Đại học Cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp sau đó cũng soạn ra cuốn Trung Dung Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử theo đó cũng phát triển các tư tưởng này và v`Êsau học trò của ông dựa trên đó đã chép thành sách Mạnh Tử Bốn cuốn sách này được gọi là Tứ Thư và cùng với Ngũ Kinh hợp thành 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo Tư tưởng được phát triển từ Khổng Tử đến Mạnh Tử đã hình thành nên Nho giáo nguyên thủy hay còn gọi là Nho giáo ti Tần, Khổng giáo hay “tư tưởng Khổng-Mạnh” Từ đây cũng đã hình thành khái niệm Nho giáo
-Tuy nhiên, theo các ghi chép cổ của người Trung Hoa cổ thì ngu ôn gốc của Nho giáo có
từ Phục Hy (một vị thn tích truyˆ&a thuyết của Trung Quốc), ông là người đần tiên đưa
Trang 2ra khái niệm v €4m duong, ché ra bat quai va những chuẩn mực xã hội để dạy cho loài người
- Đến cuối cùng, các nghiên cứu vẫn chỉ ra rằng Nho giáo chỉ thực sự ra đời bởi Khổng
Tử Vì ông là người đã tổng hợp lại những quan điểm vêtư tưởng, đạo lý, lẽ sống rởi rạc trong lịch sử thành một chỉnh thể thống nhất cho Nho giáo
1.2 Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Ngu 8n gốc xuất hiện Nho giáo ở Việt Nam:
- Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, (*Ở đây đặt một câu hỏi: Ai là kẻ
đã đô hộ nước ta và khiến ta rơi vào 1000 năm Bắc thuộc Câu trả lời: Triệu Đà) nhưng
do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt 1.000 năm, Nho giáo chưa có được chỗ đứng trong đởi sống văn hóa tỉnh thần của người Việt Suốt thời kỳ lịch sử này, giới Nho sĩ bản địa vẫn còn ít ỏi và chưa trở thành một lực lượng xã hội đáng kể Trong khi đó tín ngưỡng Phật giáo và Đạo giáo phổ biến hơn nhỉ 'âu
Ví dụ: Phật giáo từ Ấn Độ và Trung Quốc du nhập Việt Nam h'â như không gặp sự phản ứng và chống đối nào từ phía nhân dân và phát triển khá nhanh Nó được người Việt thời đó tiếp nhận vì bản thân nó vốn không phải là hệ tư tưởng của kẻ xâm lược như Nho giáo Mặt khác, giáo lý Phật giáo với tư tưởng từ bi, cứu khổ cứu nạn, đ`êcao lòng nhân ái vị tha, sự độ lượng khoan dung, đức đạm bạc thanh khiết đã tỏ ra rất g3n gũi với những tập quán, tín ngưỡng đân gian bản địa nên dễ dàng cải biến để thâm nhập, hoà quyện với tư tưởng, tín ngưỡng của người Việt Nam xưa
Còn Đạo giáo, nhất là Đạo giáo phù thủy trong thời kỳ Bắc thuộc, cũng ảnh hưởng sâu rộng không kém gì Phật giáo Bởi lẽ, Đạo giáo phù thủy rất gn với tín ngưỡng ma thuật vốn có của người Việt cổ Cho đến tận thởi kỳ sau này vẫn còn không ít người Việt Nam còn tin tưởng và sùng bái đông bóng, bùa chú Hơn nữa, Đạo giáo phù thủy cũng góp phẦn cung cấp cho nhân dân ý thức v sức mạnh của chính nghĩa, cổ vũ tỉnh thần đoàn kết, chống áp bức cưỡng quy ôn
Trang 3Sang thời Đại Việt, tư tưởng Nho giáo ngày càng tư tưởng Nho giáo ngày càng được phổ biến rộng rãi do Nho giáo là nội dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trưởng Câu hỏi: Nước ta có tên gọi Đại Việt từ tri €1 dai nao?
Câu trả lời: Tri âu nhà Lý, thời vua Lý Thánh Tông
Từ chỗ chiếm được địa hạt giáo dục, Nho giáo đã từng bước chậm mà chắc, chiếm lĩnh dần địa hạt chính trị và tư tưởng Đến thế kỷ XV, Nho giáo đạt đến cực thịnh khi nhà Lê tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo
2 Nội dung tư tưởng của Nho giáo
- Nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo được biểu hiện trong hệ thống giáo lý Tam Cương, Ngũ thường và thuyết Chính danh
+ Tam cương (ba mối quan hệ rưởng cột để duy trì trật tự xã hội) g âm có: Quân-thn (vua-tôi);Phụ-tử(cha-con});Phu-phụ(ch ng-vợ).Trong các mối quan hệ này đòi hỏi b`ê trên(vua-cha-ch ng) phải thương yêu,chăm sóc và bao dung kẻ dưới(b tôi,con,vợ).Kẻ dưới phải kính nhường,thương yêu,phục tùng và biết ơn b €trén( b €téi phải tuyệt đối trung với vua -đ`Êcao chữ trung (Quân xử thn tử,thẦần bất tử bất trung);con phải tuyệt đối phục tùng cha -đ`êcao chữ hiếu (Phụ xử tử vong.tử bất vong bất hiếu);vợ phải phục tùng ch ñg(Phu xướng phụ tuỳ).Trong đó,mối quan hệ vua-tôi là trọng tâm, vì vậy chữ trung được đặc biệt đ êcao
+ Ngũ thường (năm đức tính cơ bản,thưởng hằng của con người làm n`& tảng đạo đức cho xã hội):Nhân, Nghĩa, Lễ,Trí Tin
Nhân: nhân là người học Nhân tức học cách làm người Để làm người tốt thì phải có cái tâm,cái tâm biết yêu thương muôn loài muôn người.Trước khi muốn thành tài thì phải thành người Trong ngũ thưởng,chữ Nhân được coi là trung tâm.là nˆân tảng chỉ phối mọi quan hệ ứng xử
LỄ: lễ trong lễ độ, lễ nghi, lễ phép Lễ răn đạy con người ta phải cư xử cho phải phép,tôn trọng và hoà nhã với mọi người
Trang 4Nghĩa: là chính nghĩa, tình nghĩa, sự công tâm, công bằng.Chữ nghĩa chỉ dạy con người phải cư xử sao cho công bằng theo lẽ phải theo cái tình cái lý
Trí: trí trong trí tuệ, trí khôn Trí thể hiện sự sáng suốt Người có trí là người giữ được sự sáng suốt,biết cách nhìn nhận,phân biệt đúng ,sai phải ,trái thiện ác
Tin: tín là sự tin tưởng, tín nhiệm, ni ân tin Tín chỉ dạy con người ta làm người phải biết giữ chữ tín nói lời phải giữ lấy lời
- Nho giáo coi Tam cương, Ngũ thưởng là các nguyên lý đạo đức cơ bản làm chuẩn mực cho việc xây dựng nhân cách con người và quan hệ ứng xử giữa nguỡi với người trong gia đình và ngoài xã hội,coi đó là nên tảng để xây dựng xã hội thái bình, trật tự và ổn định
Hình mẫu đối với người đàn ông (đấng nam nhì):
Quân tử là hình mẫu con người lý tưởng theo nhân sinh quan của Nho giáo phù hợp với phương thức cai trị xã hội đức trị (nhân tr) Muốn làm được đi ôi đó, người quân tử phải luôn phấn đấu theo những bậc thang sau đây:
Tu thân: luôn nghiêm khắc với bản thân mình, sửa chữa những thiếu sót, không bảo thủ
để nhận rõ sai sót nhằm hoàn thiện bản thân
AlAs
T €gia: lam cho gia đình mình tốt đẹp, t`Êchỉnh, có n'ênếp, gia phong
Trị quốc: lo toan việc nước, cai trị đất nước cho có kỷ cương, phép nước
Bình thiên hạ: khiến cho thiên hạ thái bình, lòng người quy thuận
=> Nam nhỉ thởi phong kiến coi việc lập công (để lại sự nghiệp) và lập danh (để lại tiếng thơm) là nhiệm vụ quan trọng của cuộc đơi Đặt trong xã hội phong kiến thởi loạn lạc, chí làm trai có tác dụng mạnh mẽ, cổ vũ con người từ bỏ lối sống cá nhân, ích kỉ để sẵn
an"
sàng hi sinh cho sự nghiệp "bình quốc an dân” do đó nó mang giá trị tích cực
Ví dụ: bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão thể hiện rõ chí làm trai của người đàn ông trong thời phong kiến dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo
Trang 5“Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu
Nam nhi bị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.”
Hình mẫu của phụ nữ
Đối với người phụ nữ, nội dung giáo dục đạo đức của Nho giáo thể hiện thông qua thuyết Tam tòng, Tứ đức Tư tưởng này đã đóng góp những giá trị nhất định làm nên vẻ dep truy th thống của người phụ nữ Việt Nam
Thuyết Tam Tòng có nghĩa là người phụ nữ sống ở nhà từ bé đến lúc trưởng thành, khi chưa lấy chồng thì theo cha Người cha quyết định mọi việc của con gái kể cả hôn nhân Mạnh Tử đã cho rằng: “Nếu chẳng đợi lệnh cha mẹ, chẳng chở lởi mai mốt, mà lén dùi
lỗ để nhìn nhau, vượt tưởng để theo nhau, thì cha mẹ và người trong xứ đều khinh rẻ mình”
Quy dinh tam tong khiến người phụ nữ khi lấy ch'ông thì phải theo ch ng dù sướng hay khổ vẫn phải chấp nhận, nếu ch `ông qua đời phải theo con trai không được đi bước nữa Thuyết Tứ đức đặt ra khuôn khổ người phụ nữ toàn diện theo các đức Công - Dung - Ngôn - Hạnh:
Chữ công, theo quan niệm của Nho giáo “nữ nội, nam ngoại” nên trong thời phong kiến, môi trưởng làm việc của người phụ nữ là ở trong gia đình, giỏi nấu ăn, thêu thùa, may vá
để phục vụ ch “ng con còn việc xã hội là của nam giới
Dung được hiểu là vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ, thể hiện qua dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang phục, trang điểm tạo nên sự đoan trang Vẻ đẹp hình thức luôn gắn với vẻ đẹp tâm hên, tính cách, ứng xử Nho giáo luôn chú trọng việc xây dựng một vẻ đẹp hoàn thiện đối với người phụ nữ
Trang 6Ngôn tức người phụ nữ phải nói năng với ngôn từ nhã nhặn, kín đáo, âm thanh của lời nói nhỏ nhẹ, dễ nghe Lời nói đẹp còn phải gắn li n với cử chỉ phù hợp
Hạnh là nội dung bên trong, là phẩm hạnh của người phụ nữ và được biểu hiện ra hình thức bên ngoài là công, ngôn, dung Theo quan niệm của nho giáo, giá trị của người phụ
nữ cao hay thấp là do đức hạnh quyết định chủ yếu Chính vì lẽ đó, khi giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng tứ đức của Nho giáo làm công cụ giáo hóa đối với người phụ nữ
đã đặt đức hạnh vào vị trí quan trọng bậc nhất trong tứ đức
Thuyết chính danh
Chính danh là tư tưởng cơ bản của chính trị Nho giáo nhằm đưa xã hội loạn lạc trở lại trạng thái ổn định (“được trị”)
Khổng Tử giải thích như sau: chính danh là làm cho mọi việc ngay thẳng Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, trên — dưới, vua — tôi, cha — con,
ch Ông - vợ Cụ thể là vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, ch Ông cho ra ch Šng, vợ cho ra vợ Nói một cách khái quát là ai ở vị trí nào cũng phải làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình ở các cương vị đó Như vậy, theo Khổng Tử chính danh là điểm mấu chốt để đưa xã hội trở nên trật tự, n nếp Nhưng để có chính danh, mỗi người phải thực hiện đúng danh phận của mình không lạm quyên Một xã hội có chính danh là một xã hội có trật tự kỷ cương, thái bình, thịnh trị
=> Hơn 1.000 năm du nhập vào Việt Nam là khoảng thời gian quá đủ để Nho giáo Trung Hoa để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng văn hóa Việt để từ đó tác động sâu sắc và toàn diện đến tư tưởng lối sống, cách tư duy và hành vi ứng xử của người Việt
3 Đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam
- Những nét đặc sắc của Nho giáo ở Việt Nam
+ Nếu ở Trung Hoa coi trọng tư tưởng “trung quân”, thì ngược lại ở Việt Nam nó được chuyển biến tích cực hơn, ở nước ta tỉnh thần yêu nước, tỉnh thần dân tộc lại rất mạnh
tư tưởng “trung quân” luôn gắn liên với “ái quốc”
Trang 7Ví dụ: tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn trãi thuật lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn - quá trình đánh đuổi quân Minh giành độc lập cho Đại Việt, tác phẩm này còn được coi là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 trong lịch sử Việt Nam
+Tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo khi v`êđến Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của văn hoá mẫu hệ đã được giảm bớt, không đến mức quá hà khắc như Nho giáo của Trung Hoa
VD: Truy‘& thống coi trọng của người phụ nữ trong thể hiện trong lĩnh vực pháp luật Với Bộ luật Hằng Đức, Lần đần tiên trong lịch sử Việt Nam, người phụ nữ được pháp luật quy định một loại quy `: đặc biệt, đó là quy`âi được bỏ chồng Đi`âi 308 quy định:
“Pham ch tng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ” Trong thực tế, thời phong kiến người phụ nữ rất hiếm khi thực hiện được quy ân này Tuy nhiên việc luật định như vậy đã thể hiện được quy ân lợi
của người phụ nữ và quan trọng hơn nó trở thành cơ sở để bất buộc người ch “ng phai thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với vợ và gia đình
Trang 8
+ Truy*â thống dân chủ của văn hoá nông nghiệp đã được m`ần hoá cho phù hợp với tâm lí, phong tục tập quán của ngửoi Việt luôn được thể hiện dù Nho giáo giữ vai trò độc tôn và trở thành công cụ thống trị của xã hội nhưng vẫn không loại trừ đi Phật giáo
và huỷ bỏ đi cái gốc của văn hoá Việt là đạo Mẫu Nếu chữ “hiếu” của Nho giáo ở Trung Hoa còn gắn bó nặng với tư tưởng “nam tôn nữ ti” thì ở Việt Nam mối quan hệ
đó trở nên nhẹ nhàng, bình đẳng hơn với cả cha mẹ “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa
mẹ như nước trong ngu ôn chảy ra”
scr.vn
Trang 9+Khái niệm cơ bản của Nho giáo như: nhân, nghĩa đã bị khúc xạ qua lăng kính của
3D LAA
người Việt Ở nước ta lúc bấy giờ chữ “Nhân” rất được coi trọng
VD: Với Những áng văn thơ của Nguyễn Trãi thể hiện rõ sự tâm đắc của ông với chữ
“Nhân” như thế nào “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược- Có nhân, có trí, có anh hùng” -> Nhân nghĩa trước hết phải trừ phải trừ tham tàn, bạo ngược giữ gìn cho nhân nghĩa luôn trong sáng, không lệch lạc , đôi khi nhân nghĩa gắn li`êa với trách nhiệm đìu dắt dân
+ Xu hướng trọng văn hơn trọng võ Chịu sự ảnh hưởng của văn hoá nông nghiệp ở Phương Nam nên nho giáo rất coi trọng văn, văn hoá , trọng kẻ sĩ trong khi đó “vố”
“đũng” ít được nhắc đến Người Việt xưa dù luôn phải đối mặt với chiến tranh xâm lược nhưng họ vẫn ham học chữ, thi văn ít quan tâm đến các kì thi võ
VD: Chữ được người Việt so sánh với Vàng “Một kho vàng không bằng một nan chữ” Hay chữ còn được so sánh với nhà Nông “Chẳng cấy lấy đâu có chữ, chẳng học lấy đâu biết chữ”
- Chuyển biến của Nho giáo vào cuối thế kỷ XVI
Từ cuối thế kỷ XVI cho đến hết thế kỷ XVIII, Nho giáo ở Việt Nam đi vào giai đoạn suy vong không thể cứu vãn Nho giáo là một học thuyết v`êchính trị xã hội nhằm giúp quản
lí đất nước nhưng Do khủng hoảng chính trị, Trịnh- Nguyễn phân tranh, với những trận đánh kéo đài từ năm nay sang năm khác dẫn đến thiệt hại, tổn thất nặng n`êlàm mất đi
sự hưng thịnh vốn có của Nho giáo không thể lấy lại vị thế vốn có & thé’ ki XV
4 Sự ảnh hưởng, tác động của Nho giáo đến đời sống văn hoá tỉnh th của người Việt xưa và nay
H Sự tác động của nho giáo đến
văn hóa tinh thần Việt Nam thoi
xưa:
Trong cuộc kháng chiến chống
quân Minh, các nhà Nho, đứng đẦầi là
Nguyễn Trãi, tập hợp dưới ngọn cở
Trang 10của Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn Với sự lớn mạnh của Nho giáo Việt nam, với nhu c3 cải cách đất nước đã dẫn đến việc tri âi Lê chủ động đưa Nho giáo thành Quốc giáo; Nho giáo giữ địa vị độc tôn Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của các tri âi đại phong kiến Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam , bao trùm lên toàn bộ hoạt động tinh th% va văn hóa của xã hội Chính vì thế, hệ tư tưởng Nho giáo đã đem đến những giá trị nhất định về mặt tích cực cũng như tiêu cực trong n` văn hóa tỉnh thần của Việt Nam xưa và nay
« Tac déng tích cực của Nho giáo đến văn hóa tỉnh thần Việt Nam thởi xưa:
- - Nho giáo góp phẦn xây dựng các tri âi đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ chủ quy ê dân tộc
Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến
và phát triển, thể hiện ở các cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đầ chùa Các
tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức, thủ tục
ma chay, cưới xin, các quy định v ềtôn ti trật tự, ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt nam, nhat 1a bat da từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đâu thống trị và trở thành hệ
tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến
- Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng người tài”
Hi 3n tài là nguyên khí của quốc gia Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh Nguyên khí yếu thì quốc gia suy”
+ Công lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt nam, trong đó
có nhi `âi nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm
Lê Quý Đôn Nguyễn Trãi Nguyễn Du Ngô Thì Nhậm