NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Chủ nhiệm đề tài TS Nguyễn Thị Mai Hương Thư ký TS Nguyễn Thị Đoan Trang Thành viên Ths Đỗ Thị Hương Ths Hồ Thị Bích Nhơn Ths Trần Thị Hải Vân Tp Hồ Chí Minh, tháng 5 2021 i TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến CLDVKT BCTC của các NHTM tại Việt Nam Sau k.
Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Xác định và đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến CLDVKT BCTC trong NHTM Việt Nam
Thứ nhất, Xác định các nhân tố tác động đến thực trạng CLDVKT BCTC các
NHTM hiện nay ở Việt Nam – từ góc nhìn của KTĐL
Đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến thực trạng chất lượng dịch vụ kế toán báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay là một vấn đề quan trọng, cần được xem xét từ góc nhìn của kinh tế địa lý.
Đề xuất các chính sách nhằm tăng cường độ tin cậy và tính minh bạch trong thông tin báo cáo tài chính (BCTC) của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam là rất cần thiết Các biện pháp này không chỉ giúp cải thiện niềm tin của nhà đầu tư mà còn nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát trong ngành ngân hàng Việc thực hiện các quy định nghiêm ngặt hơn về công khai thông tin và minh bạch hóa quy trình báo cáo sẽ góp phần tạo ra một môi trường tài chính ổn định và bền vững.
Câu hỏi 1: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến CLDVKT BCTC của các NHTM Việt Nam?
Câu hỏi 2: Mức độ tác động của các nhân tố đến CLDVKT BCTC của các NHTM Việt Nam như thế nào?
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp Trong đó:
Tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, phân tích những điểm tương đồng và khác biệt, nhằm xác định khoảng trống trong nghiên cứu và đề xuất một mô hình nghiên cứu mới.
Kết hợp nghiên cứu các lý thuyết nền giúp hệ thống hóa cơ sở lý thuyết và tạo lập luận vững chắc cho việc đề xuất các giả thuyết nghiên cứu.
Thông qua việc tổng hợp kết quả từ các nghiên cứu liên quan, chúng tôi đã xây dựng một mô hình dự kiến Tiếp theo, chúng tôi sẽ tiến hành phỏng vấn các chuyên gia để hoàn thiện mô hình này.
Trước khi thiết kế thu thập dữ liệu để kiểm định kết quả khảo sát trực tuyến qua Google Docs hoặc phát phiếu khảo sát trực tiếp, cần xác định 4 thang đo cho các biến phụ thuộc và biến độc lập.
Nghiên cứu định lượng được thực hiện nhằm xác định và thu thập dữ liệu liên quan đến các nhân tố tác động đến chất lượng dịch vụ kế toán báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại Các kỹ thuật phân tích thống kê, với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 22.0, bao gồm thống kê tần số, đánh giá độ tin cậy Cronbach’s alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích tương quan và phân tích hồi quy tuyến tính, đã được áp dụng để đưa ra kết quả nghiên cứu.
Đóng góp của đề tài
Bài viết này đóng góp vào kho dữ liệu nghiên cứu về chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) của báo cáo tài chính (BCTC) tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam Tài liệu này sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho sinh viên, học viên, nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách, những người quan tâm đến CLDVKT BCTC Nó giúp cung cấp cái nhìn toàn diện về các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng BCTC đã được kiểm toán của các NHTM Việt Nam, từ góc độ của kiểm toán viên (KTV).
Nghiên cứu này mang lại giá trị thực tiễn cao nhờ vào việc tổng hợp kết quả khảo sát từ các KTV Điều này cung cấp cho DNKT và các cơ quan quản lý chức năng cơ sở vững chắc để xây dựng kế hoạch và cơ chế pháp lý, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của các yếu tố đến chất lượng dịch vụ kế toán tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Kết cấu đề tài
Đề tài bao gồm 5 chương, kèm theo phần mở đầu, tóm tắt, lời cam đoan, lời cám ơn, danh mục các bảng biểu, hình vẽ, tài liệu tham khảo, phụ lục và kết luận.
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Cơ sở lý thuyết của đề tài nghiên cứu
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận nghiên cứu và hàm ý chính sách
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÍNH MINH BẠCH CỦA THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Sự phát triển của kinh tế tri thức gắn liền với khái niệm minh bạch thông tin, như đã được Trương Đông Lộc và Nguyễn Thị Kim Anh (2016) chỉ ra Nhiều học giả, bao gồm Bushman & Smith (2001), Vaccaro & Madsen (2009) và Winkler (2000), đã nghiên cứu về minh bạch thông tin và mặc dù có các cách tiếp cận khác nhau, nhưng vẫn có sự nhất quán trong cách hiểu Đặc biệt, từ góc độ thị trường, Vaccaro & Madsen nhấn mạnh tầm quan trọng của minh bạch trong việc xây dựng niềm tin và thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Theo Winkler (2009), minh bạch thông tin được định nghĩa là mức độ đầy đủ của thông tin được cung cấp cho thị trường, liên quan đến các hoạt động kinh doanh Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin rõ ràng và đầy đủ để các bên liên quan có thể đưa ra quyết định chính xác.
Minh bạch thông tin được định nghĩa là khối lượng thông tin mà các nhà kinh tế dựa vào để đưa ra quyết định Theo Bushman (2004), từ góc độ nhà đầu tư và cổ đông, minh bạch thông tin thể hiện sự sẵn có của thông tin cụ thể về công ty đối với các bên ngoài Cấu phần của minh bạch thông tin bao gồm hai yếu tố chính: mức độ công bố thông tin và chất lượng công bố thông tin.
Mức độ công bố thông tin của công ty được thể hiện qua sự sẵn có và đầy đủ của các thông tin đặc thù trên thị trường, bao gồm thông tin tài chính, quản trị, chế độ kế toán, độ cập nhật của báo cáo tài chính, các kênh truyền tải thông tin, và thông tin công bố dành riêng cho một số đối tượng nhất định (Bushman và Williams, 2012).
Chất lượng thông tin là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá tính minh bạch thông tin, không chỉ dựa vào số lượng thông tin mà công ty công bố Theo Baumann và Nier (2004), mức độ công bố thông tin không nhất thiết phản ánh mức độ minh bạch, vì nó chỉ mô tả khía cạnh định lượng Minh bạch thông tin còn phụ thuộc vào chất lượng của thông tin được cung cấp, điều này cho thấy rằng việc công bố thông tin phải đảm bảo cả về số lượng lẫn chất lượng.
Năm 2008, đã nhấn mạnh rằng sự minh bạch thông tin không chỉ yêu cầu các chủ thể tham gia thị trường cung cấp thông tin, mà còn cần phải sắp xếp và trình bày thông tin trong một bối cảnh phù hợp để tạo ra ý nghĩa cho thông tin đó (Baumann và Nier, 2004).
Bushman và Williams (2012) chỉ ra rằng mối quan hệ giữa thông tin kế toán và minh bạch là phức tạp Báo cáo tài chính (BCTC) của ngân hàng chỉ cung cấp một mô tả về sự thật, chứ không phải là sự thật chính xác Tính minh bạch của thông tin thể hiện qua mức độ rõ ràng của tình hình thực tế của ngân hàng, được phản ánh sau khi các con số kế toán đã được kiểm toán và báo cáo.
Singhvi và Desai (1971) sử dụng một danh sách công bố với 34 mục điểm tại
Nghiên cứu về 155 tập đoàn công nghiệp lớn của Mỹ cho thấy kết quả tương đồng với nghiên cứu của Cerf (1961), cho thấy mối quan hệ tích cực giữa mức độ công bố thông tin trong báo cáo thường niên và các yếu tố như lợi nhuận và quy mô doanh nghiệp.
DN và số lượng cổ đông
Nghiên cứu của Cooke (1992) tại Nhật Bản đã chỉ ra rằng các yếu tố như nhóm ngành công nghiệp, tình trạng niêm yết và quy mô công ty đều ảnh hưởng tích cực đến mức độ công bố thông tin tự nguyện và bắt buộc của 35 công ty Kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố này trong việc cải thiện tính minh bạch thông tin doanh nghiệp.
Năm 1993, Cooke tiến hành nghiên cứu về mức độ công bố thông tin tự nguyện trong báo cáo thường niên của 48 công ty Nhật Bản Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ rõ ràng giữa mức độ công bố thông tin tự nguyện và tình trạng niêm yết của các công ty này.
Nghiên cứu của Owusu – Ansah (1998) về tác động của các đặc điểm công ty đến mức độ công bố thông tin bắt buộc tại Zimbabwe đã chỉ ra rằng có mối quan hệ tích cực giữa mức độ công bố này và các yếu tố như cấu trúc sở hữu, quy mô công ty, độ tuổi công ty, khả năng sinh lời cũng như sự liên kết đa quốc gia Dữ liệu được thu thập từ 49 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Zimbabwe (ZSE).
Nghiên cứu của Chau và Gray (2002) về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và mức độ công bố thông tin tự nguyện trên báo cáo thường niên của các công ty niêm yết tại Singapore và Hồng Kông cho thấy quyền sở hữu có ảnh hưởng tích cực đến mức độ công bố thông tin này Cụ thể, các công ty có cấu trúc sở hữu nội bộ hoặc do gia đình kiểm soát thường không công bố nhiều thông tin vượt ngưỡng bắt buộc so với các công ty có quyền sở hữu rộng hơn.
Nghiên cứu của Hossain (2008) trong lĩnh vực ngân hàng tại Ấn Độ chỉ ra rằng các yếu tố như thành phần hội đồng quản trị, lợi nhuận, quy mô và các biến thị trường có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ công bố thông tin Kết quả nghiên cứu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin minh bạch trong ngành ngân hàng.
Bảy thông tin kịp thời giúp giảm thiểu vấn đề ngân hàng về mức độ và tần suất, đồng thời nâng cao tính minh bạch Điều này tạo động lực cho các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn và kiểm soát rủi ro một cách cẩn trọng.
Nghiên cứu về tác động của các nhân tố đến công bố thông tin trên BCTC đã thu hút nhiều tác giả, trong đó có Phạm Thị Thu Đông (2013) với dữ liệu khảo sát từ 80 công ty trong lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch vụ Nghiên cứu này đề xuất mô hình với các biến độc lập như quy mô doanh nghiệp, tài sản cố định, đòn bẩy nợ, khả năng sinh lời, thời gian hoạt động, chủ thể kiểm toán và khả năng thanh toán Kết quả cho thấy chỉ có khả năng sinh lời và tài sản cố định có mối quan hệ thuận chiều với mức độ công bố thông tin kế toán, điều này khác biệt so với nhiều nghiên cứu quốc tế trước đó về quy mô công ty như của Singhvi và Desai (1971), Cooke (1992) và Hossain (2008) Tuy nhiên, nghiên cứu của Đoàn Nguyễn Trang Phương (2010) lại cho kết quả tương tự như nghiên cứu của Phạm Thị Thu Đông.
CÁC NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Nghiên cứu của Myungsoo Son (2005) tại Đại học Nebraska đã xem xét ảnh hưởng của dịch vụ phi kiểm toán đến chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) bằng cách sử dụng hai phương pháp đo lường chất lượng báo cáo tài chính: các khoản dồn tích có thể điều chỉnh (Discretionary accruals - DA) và hệ số phản ứng thu nhập (Earnings response coefficients - ERC) DA phản ánh CLDVKT thực tế, trong khi ERC thể hiện nhận thức của nhà đầu tư về chất lượng báo cáo tài chính Nghiên cứu cũng phân tích tác động của dịch vụ phi kiểm toán trước và sau khi Đạo luật Sarbanes-Oxley (SOX) được ban hành, với mẫu khảo sát gồm 1.865 báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên NYSE, NASDAQ và AMEX tại Mỹ Kết quả cho thấy dịch vụ phi kiểm toán có tác động tiêu cực đến CLDVKT, và CLDVKT đã được cải thiện sau khi thực hiện yêu cầu của đạo luật SOX đối với các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ phi kiểm toán lớn.
Giá phí kiểm toán phụ thuộc vào quy mô công ty khách hàng, tính phức tạp và rủi ro của quá trình kiểm toán, như được nêu trong nghiên cứu của Jong Hag Choi và cộng sự (2010) mang tên “Audit Office Size, Audit Quality, and Audit Pricing” (A Journal of Practice & Theory, Vol 29, No.1, May, pp 73-79) Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu khảo sát từ một mẫu lớn khách hàng của các doanh nghiệp kiểm toán trong giai đoạn 2000-2005.
9 quả điều tra cho biết quy mô của DNKT có ảnh hưởng đáng kể đến CLDVKT và giá phí kiểm toán
Nghiên cứu của Jong Hag Choi và cộng sự (2010) trong bài viết "Audit Office Size, Audit Quality, and Audit Pricing" đã phân tích mối quan hệ giữa quy mô của doanh nghiệp kiểm toán (DNKT), chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) và giá phí kiểm toán Dữ liệu khảo sát được thu thập từ một mẫu lớn khách hàng của các DNKT trong giai đoạn 2000-2005 cho thấy quy mô DNKT có ảnh hưởng đáng kể đến CLDVKT và giá phí kiểm toán Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng giá phí kiểm toán phụ thuộc vào quy mô công ty khách hàng, tính phức tạp và rủi ro của quá trình kiểm toán.
In her 2013 study, "An Empirical Analysis of Auditor Independence and Audit Fees on Audit Quality," published in the International Journal of Management and Business Studies, Novie Susanti Suseno investigates the impact of auditor independence and audit fees on audit quality The research surveyed 73 audit firms that conduct audits for publicly listed companies in Indonesia The findings indicate that both auditor independence and audit fees significantly affect audit quality The study suggests several measures to enhance audit quality, including the development and maintenance of auditor independence and the establishment of appropriate audit fee structures.
Hosseinniakani et al (2014) conducted a comprehensive review on audit quality factors, published in the International Journal of Academic Research in Accounting, Finance and Management Sciences The study outlines theoretical foundations of audit quality and identifies key influencing factors, including audit firm size, professional competence, audit tenure, audit fees, non-audit services, firm reputation, auditor independence, and auditor accountability It also suggests future research directions Similarly, Husam Al-Khaddash et al (2013) explored factors affecting audit quality in Jordanian commercial banks, highlighting seven critical elements: audit firm size, audit fees, auditor independence, firm reputation, professional competence, and the client's internal control system.
Trong một nghiên cứu gửi bảng câu hỏi đến các kiểm toán viên (KTV) đang làm việc tại các doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) thực hiện kiểm toán cho các ngân hàng tại Jordan, tác giả đã tìm ra bằng chứng thực nghiệm cho mối tương quan tích cực giữa bốn yếu tố và chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) Các yếu tố này bao gồm danh tiếng của DNKT, giá phí kiểm toán, trình độ của KTV và quy mô của DNKT.
CLDVKT đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam, đặc biệt là nghiên cứu của Trần Thị Giang Tân (2011) với đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của KSCL hoạt động KTĐL ở Việt Nam”, thuộc dự án nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ tại Trường Đại học Kinh tế TP.HCM Nghiên cứu này tập trung vào lý luận về chất lượng và kiểm soát chất lượng (KSCL) trong hoạt động kiểm toán, đồng thời khảo sát và tổng hợp kinh nghiệm từ các quốc gia khác trong việc xây dựng quy định về KSCL cho hoạt động KTĐL Ngoài ra, nghiên cứu cũng thực hiện khảo sát thực trạng KSCL đối với hoạt động KTĐL tại Việt Nam, sử dụng dữ liệu từ báo cáo hoạt động thường niên của 55 doanh nghiệp kiểm toán trong vòng 2 năm.
Năm 2009 và 2010, báo cáo của Vụ chế độ Kế toán – Kiểm toán và VACPA đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc thiết lập quy định về kiểm soát chất lượng (KSCL) Từ đó, các giải pháp định hướng được đề xuất nhằm hoàn thiện quy định KSCL cho hoạt động kiểm toán độc lập (KTĐL) tại Việt Nam.
Luận án tiến sĩ của Trần Khánh Lâm (2011) tại Trường Đại học Kinh tế TP.HCM nghiên cứu về cơ chế kiểm soát chất lượng (KSCL) trong hoạt động kiểm toán độc lập (KTĐL) tại Việt Nam Nghiên cứu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT), cơ chế KSCL và các chuẩn mực kiểm toán liên quan, đồng thời xem xét quá trình hình thành và phát triển hoạt động KTĐL Tình hình chất lượng hoạt động KTĐL được khảo sát qua hồ sơ kiểm tra năm 2009 của 35 công ty kiểm toán và thông qua 110 bảng câu hỏi gửi đến các công ty kiểm toán, với tỷ lệ phản hồi 52% Kết quả cho thấy nhiều công ty kiểm toán tại Việt Nam chưa chú trọng đến KSCL từ bên trong, trong khi KSCL từ bên ngoài vẫn còn nhiều vấn đề cần khắc phục Luận án đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện cơ chế KSCL cho hoạt động KTĐL tại Việt Nam.
Nguyễn Thị Ngọc Mai (2013) trong luận văn thạc sĩ của mình đã nghiên cứu về các thuộc tính cá nhân cần có của kiểm toán viên (KTV) nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) tại các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam Nghiên cứu đã khảo sát 23 thuộc tính cá nhân và xác định rằng khả năng chịu đựng áp lực, tinh thần trách nhiệm, kiến thức, tính cẩn thận và phương pháp làm việc là những thuộc tính quan trọng nhất Lâm Huỳnh Phương (2013) cũng đã phân tích mối quan hệ giữa CLDVKT và nhiệm kỳ của KTV trong luận văn thạc sĩ của mình, với kết quả cho thấy nhiệm kỳ kiểm toán không ảnh hưởng đến CLDVKT, đồng thời đề xuất tăng thời gian luân chuyển KTV lên ít nhất 5 năm để nâng cao chất lượng dịch vụ Nguyễn Thị Thảo Nguyên (2013) đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp đến CLDVKT, chỉ ra rằng tính độc lập, năng lực chuyên môn và tuân thủ chuẩn mực chuyên môn có tác động đáng kể đến chất lượng dịch vụ kiểm toán, với nhiều công ty đạt điểm chất lượng thấp do không thực hiện đầy đủ các yếu tố này.
12 chuyên môn có ảnh hưởng nhưng không nhiều đến CLDVKT Đinh Thanh Mai
Năm 2014, luận văn thạc sĩ tại Trường Đại học Kinh tế TP HCM đã khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kinh tế tại TP HCM Nghiên cứu áp dụng phương pháp định lượng, gửi bảng câu hỏi đến nhân viên ở 31 doanh nghiệp kinh tế Kết quả chỉ ra rằng có ba nhân tố chính ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kinh tế, trong đó có quy mô doanh nghiệp kinh tế.
Bài viết đề cập đến hai khía cạnh quan trọng: (2) KSCL từ bên ngoài và (3) Đạo đức nghề nghiệp của KTV Tác giả trình bày quan điểm cá nhân và đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện những yếu tố ảnh hưởng, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán trong hoạt động kiểm toán độc lập.
XÁC ĐỊNH KHOẢNG TRỐNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Về nhân tố tác động đến CLDVKT:
Theo Khuôn khổ CLDVKT (IAASB, 2014), các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán bao gồm nhân tố đầu vào, quá trình, đầu ra, tương tác và ngữ cảnh Nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng năng lực nghề nghiệp và tính độc lập của kiểm toán viên có tác động tích cực đến chất lượng dịch vụ (Suyono, 2012; Iman & Sukrisno, 2014) Kinh nghiệm của kiểm toán viên cũng góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc lập kế hoạch hiệu quả (Listya & Sukrisno, 2014), trong khi áp lực thời gian kiểm toán có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dịch vụ (Kym và các cộng sự, 2008; Abdul và cộng sự, 2014) Ngoài ra, quy mô doanh nghiệp kiểm toán cũng là một yếu tố quan trọng cần xem xét (Deangelo, 1981; Lennox, 1999; Ali và cộng sự).
Các công ty kiểm toán lớn thường có danh tiếng cao hơn so với các công ty nhỏ, dẫn đến chi phí danh tiếng của họ cũng lớn hơn (Hogan, 1997) Điều này tạo động lực cho các công ty kiểm toán lớn duy trì và nâng cao danh tiếng bằng cách phát hành các báo cáo kiểm toán chính xác Danh tiếng không chỉ phản ánh quy mô mà còn ảnh hưởng đến phí kiểm toán và chất lượng kiểm toán Theo lý thuyết về vốn, các công ty kiểm toán có danh tiếng lớn thường được xem là đáng tin cậy hơn và cung cấp báo cáo chính xác hơn (Teoh & Wong, 1993; Lennox).
Lý thuyết cho thấy rằng các công ty kiểm toán có uy tín cao hơn có khả năng yêu cầu mức phí kiểm toán cao hơn, do giá trị thị trường của báo cáo kiểm toán mà họ cung cấp.
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu, chúng tôi đã tiếp cận nghiên cứu của Husam Al-Khaddash và cộng sự (2013), bàn về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) tại ngân hàng thương mại (NHTM) ở Jordan Nghiên cứu xác định 6 yếu tố nội tại cần xem xét, bao gồm quy mô của doanh nghiệp kiểm toán (DNKT), năng lực chuyên môn của kiểm toán viên (KTV), tính độc lập của KTV, giá phí kiểm toán, hệ thống kiểm soát nội bộ (KSNB) của NHTM, và hoạt động kiểm soát chất lượng của các cơ quan quản lý Dựa trên nền tảng của nghiên cứu này, chúng tôi sẽ xây dựng mô hình nghiên cứu và triển khai các bước tiếp theo.
Bảng 1.1: Tổng hợp các nhân tố tác động đến CLDVKT BCTC ngân hàng từ các nghiên cứu trước
STT Nhóm nhân tố Tham chiếu nghiên cứu trước
Kết quả nghiên cứu (tác động biến phụ thuộc)
Quy mô của doanh nghiệp kiểm toán
Hogan, 1997; Jong Hag Choi và cộng sự (2010); Deangelo, 1981; Lennox, 1999; Ali và cộng sự, 2011, Stefan và cộng sự, 2013 Husam Al-Khaddash và cộng sự (2013),
Jong Hag Choi và cộng sự (2010); Kym và các cộng sự, 2008; Abdul và cộng sự, 2014; Husam Al-Khaddash và cộng sự (2013); Listya & Sukrisno, 2014
Husam Al-Khaddash và cộng sự (2013);
4 Năng lực chuyên môn của KTV
Suyono, 2012; Husam Al-Khaddash và cộng sự (2013),
5 Hệ thống KSNB của các NHTM
Cushing, 1989; Husam Al-Khaddash và cộng sự (2013),
6 KSCL đối với DNKT từ các cơ quan quản lý
Husam Al-Khaddash và cộng sự (2013);
Johnson và cộng sự, 2019; Christensen và cộng sự, 2016
(Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả)
Về phương pháp nghiên cứu:
Nhóm tác giả sẽ áp dụng phương pháp định tính để tổng hợp các nghiên cứu trước đó, nhằm xây dựng cơ sở cho mô hình nghiên cứu Việc tổng hợp lý thuyết và các yếu tố liên quan đến báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại đã cung cấp nền tảng cho việc phát triển giả thuyết nghiên cứu và thiết kế thang đo cho các biến trong mô hình Ngoài ra, hầu hết các nghiên cứu trong và ngoài nước đều sử dụng phương pháp định lượng thông qua phần mềm SPSS.22 để phân tích và đo lường tác động của các yếu tố đến chất lượng dịch vụ khách hàng.
Về dữ liệu nghiên cứu:
Các nghiên cứu đã tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua việc thiết kế bảng hỏi và phát phiếu khảo sát cho các KTV, nhằm thu thập thông tin cần thiết cho các bước kiểm định định lượng.
Xác định vấn đề nghiên cứu của đề tài:
Quá trình tổng hợp nghiên cứu cho thấy, các nghiên cứu về khía cạnh chất lượng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính tại ngân hàng thương mại trên thế giới rất hiếm, và tại Việt Nam gần như không có Vì vậy, chúng tôi quyết định tiếp tục nghiên cứu khía cạnh này từ góc nhìn của kiểm toán viên, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về tình hình kiểm toán báo cáo tài chính của các doanh nghiệp tại Việt Nam do các đơn vị dịch vụ kiểm toán thực hiện.
Chương 1 trình bày về một số các nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu được công bố ở ngoài nước và trong nước Từ đó, xác định khoảng trống của vấn đề nghiên cứu của đề tài
Kết quả từ phần tổng quan đã cho phép nhóm nghiên cứu xác định mô hình nghiên cứu dự kiến, dựa trên việc chuyển giao ý tưởng từ nghiên cứu của Husam Al-Khaddash và các cộng sự (2013).
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán chủ yếu phục vụ cho các nhà đầu tư, bao gồm cả cá nhân và tổ chức Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý và doanh nghiệp được kiểm toán cũng là những đối tượng sử dụng dịch vụ này Theo IFAC, vai trò của kiểm toán trong việc đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy của thông tin tài chính là rất quan trọng.
Kiểm toán là quá trình mà kiểm toán viên độc lập kiểm tra và đưa ra ý kiến về các báo cáo tài chính (BCTC) Theo Luật Kiểm toán độc lập (2011), kiểm toán BCTC được thực hiện bởi kiểm toán viên hành nghề và các doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam, nhằm đánh giá tính trung thực và hợp lý của BCTC theo chuẩn mực kiểm toán Để nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT), các chuẩn mực quốc tế cũng quy định trách nhiệm của doanh nghiệp kiểm toán trong việc xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng và thúc đẩy văn hóa nội bộ, nhấn mạnh rằng "chất lượng là cốt yếu khi thực hiện hợp đồng dịch vụ" DeAngelo (1981) nhận định rằng CLDVKT được thị trường nhận thức là khả năng của kiểm toán viên trong việc phát hiện và báo cáo các sai phạm trọng yếu trong BCTC Do đó, CLDVKT của BCTC phụ thuộc vào quan điểm và đặc tính nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Để đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính (CLDVKT BCTC), kiểm toán viên (KTV) cần tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp và quy trình kiểm toán do doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) thiết lập Việc này giúp KTV phát hiện và báo cáo các sai sót còn tồn tại trong báo cáo tài chính, từ đó nâng cao độ tin cậy của thông tin khi báo cáo tài chính được phát hành CLDVKT BCTC cũng được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, phản ánh sự khác biệt trong yêu cầu của các đối tượng sử dụng dịch vụ.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 (VSA 220) và Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 220 (ISA 220), chất lượng hoạt động kiểm toán được định nghĩa là mức độ thỏa mãn của các bên liên quan đối với tính khách quan và độ tin cậy của ý kiến kiểm toán từ kiểm toán viên Điều này cũng đồng nghĩa với việc đáp ứng mong muốn của đơn vị được kiểm toán.
Dịch vụ kiểm toán được đánh giá dựa trên mức độ thỏa mãn của người sử dụng báo cáo tài chính (BCTC), với ba góc độ chính Việc lắng nghe ý kiến đóng góp từ kiểm toán viên (KTV) là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong khoảng thời gian đã định và với mức phí hợp lý.
Mức độ thỏa mãn của người sử dụng kết quả kiểm toán phụ thuộc vào tính khách quan và độ tin cậy của các dịch vụ kiểm toán Điều này cho thấy rằng chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) cần được đánh giá dựa trên sự tin tưởng mà các đối tượng sử dụng đặt vào kết quả kiểm toán.
Mức độ thỏa mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về những ý kiến đóng góp của KTV
Hoạt động kiểm toán phải được thực hiện đúng thời gian dự kiến và với giá phí hợp lý
Chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) phản ánh mức độ thỏa mãn về tính khách quan và độ tin cậy của ý kiến kiểm toán từ các đối tượng sử dụng dịch vụ, bao gồm đơn vị được kiểm toán, nhà đầu tư, ngân hàng, khách hàng, nhà cung cấp và cơ quan quản lý nhà nước Để đánh giá CLDVKT, cần xem xét sự hài lòng của các bên liên quan, trong đó, đối với công ty khách hàng, chất lượng kiểm toán tài chính được đảm bảo khi kiểm toán viên có khả năng đáp ứng và chia sẻ thông tin, giúp khách hàng nhận diện tính khách quan và trung thực của báo cáo tài chính Điều này đảm bảo rằng mọi sai sót đều được phát hiện và tư vấn từ kiểm toán viên hỗ trợ công ty cải thiện hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ Đối với nhà đầu tư và cơ quan quản lý, một báo cáo tài chính chất lượng là khi họ cảm thấy tin cậy và hợp lý, từ đó đưa ra quyết định kinh tế và quản lý chính xác.
Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính được đảm bảo khi kiểm toán viên tuân thủ đầy đủ chuẩn mực nghề nghiệp và quy trình kiểm toán của công ty Việc này không chỉ đáp ứng nhu cầu tư vấn của khách hàng mà còn nâng cao uy tín của công ty kiểm toán độc lập.
18 với khách hàng đồng thời phải đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của công ty DeAngelo
Năm 1981, nhà nghiên cứu đầu tiên đã xác định rằng chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính là khả năng phát hiện và báo cáo các sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán Khả năng phát hiện sai phạm phụ thuộc vào năng lực của kiểm toán viên, trong khi việc báo cáo các sai phạm liên quan đến tính độc lập của kiểm toán viên đối với công ty khách hàng Các nghiên cứu của Palmrose (1988), Bradshaw (2001) và nhiều nhà nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) được hiểu là khả năng của kiểm toán viên trong việc phát hiện và báo cáo các sai sót trong việc trình bày và công bố các báo cáo kiểm toán của đơn vị được kiểm toán.
Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính (CLDVKT BCTC) được đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau và phụ thuộc vào yêu cầu của người sử dụng Theo tác giả, để đảm bảo chất lượng kiểm toán, kiểm toán viên cần tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp cũng như quy trình và thủ tục kiểm toán do công ty kiểm toán thiết lập Việc này giúp phát hiện và báo cáo các sai sót trong báo cáo tài chính, từ đó nâng cao độ tin cậy của thông tin được cung cấp.
2.1.2 Các đặc điểm chất lượng cơ bản của thông tin tài chính
Theo quan điểm của FASB
Hội đồng chuẩn mực BCTC (FASB) được thành lập vào năm 1973 tại Mỹ, có nhiệm vụ soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kế toán tài chính cho các công ty tư nhân, công ty đại chúng và tổ chức phi lợi nhuận theo hệ thống GAAP FASB được Ủy ban chứng khoán Mỹ công nhận là cơ quan ban hành chuẩn mực kế toán cho các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ, và cũng được nhiều tổ chức khác công nhận, bao gồm Hiệp hội kế toán viên công chứng Mỹ (AICPA) Theo FASB, chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính được phân thành hai nhóm đặc điểm: đặc điểm cơ bản (tính thích hợp và đáng tin cậy) và đặc điểm bổ sung (nhất quán và có thể so sánh) Do đó, thông tin tài chính cần có hai đặc điểm cơ bản là tính thích hợp và tính đáng tin cậy.
Thông tin kế toán thích hợp là yếu tố quan trọng giúp người sử dụng đưa ra quyết định chính xác Để đảm bảo tính phù hợp, thông tin cần phải có giá trị và liên quan đến tình huống cụ thể mà người dùng đang đối mặt.
Việc dự đoán và đánh giá kịp thời là rất quan trọng, cho phép người sử dụng điều chỉnh các dự đoán trước đó và từ đó thay đổi quyết định của mình Để đạt được hiệu quả tối ưu, thông tin cần được cung cấp một cách nhanh chóng, đảm bảo rằng người dùng có đủ thời gian để sử dụng trước khi thông tin mất đi tính khả thi trong việc ra quyết định.
Thông tin kế toán đáng tin cậy cần đảm bảo ba yếu tố chính: trình bày trung thực, khách quan và có thể kiểm chứng Trình bày trung thực yêu cầu thông tin phải phản ánh chính xác nghiệp vụ hoặc sự kiện Khách quan nghĩa là thông tin không được thiên lệch để đạt được một kết quả đã định sẵn, và không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài Cuối cùng, khả năng kiểm chứng đảm bảo rằng những người đánh giá độc lập có thể xác nhận rằng thông tin tài chính phản ánh đúng thực tế mà nó đại diện, đồng thời phương pháp đánh giá phải không có sai sót hay thiên lệch.
Theo quan điểm của IASB
Hội đồng chuẩn mực BCTC quốc tế (IASB) là cơ quan độc lập thuộc Tổ chức Chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS Foundation), được thành lập năm 2001 tại Anh Hiện tại, gần 120 quốc gia đã áp dụng Chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) cho các công ty niêm yết Theo Khuôn khổ khái niệm do IASB ban hành năm 2010, mục tiêu của BCTC là cung cấp thông tin hữu ích cho người sử dụng và đánh giá khả năng quản lý nguồn lực kinh tế của doanh nghiệp Thông tin tài chính được coi là hữu ích khi đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, bao gồm tính thích hợp (Relevance) và trình bày trung thực (Faithful Representation), đây là hai yêu cầu cơ bản để thông tin tài chính trở nên có giá trị cho người sử dụng.
LÝ THUYẾT NỀN LIÊN QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.3.1 Lý thuyết tín hiệu (Signaling theory)
Bài toán bất đối xứng thông tin gây cản trở giao dịch công bằng và ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của các bên trong quan hệ mua bán Để giải quyết vấn đề này, Michael Spence đã phát triển “lý thuyết tín hiệu” vào năm 1973, nhấn mạnh rằng việc cung cấp và tiếp nhận thông tin cần đạt được sự cân bằng Khi có sự bất đối xứng thông tin, giải pháp tối ưu theo lý thuyết tín hiệu là người bán và người mua nên chia sẻ thông tin để đạt được lợi ích mong muốn Người bán cần cung cấp cho người mua các tín hiệu thể hiện thông tin tốt nhất nhằm giảm thiểu sự bất đối xứng thông tin.
Thị trường lao động, theo Spence (1973), là nơi diễn ra vấn đề bất đối xứng thông tin giữa ứng viên và nhà tuyển dụng Ứng viên luôn tìm cách thể hiện năng lực chuyên môn để thu hút sự chú ý của nhà tuyển dụng.
Nhiều công ty tuyển dụng gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin chính xác từ ứng viên để đánh giá năng lực của họ, mặc dù sẵn sàng trả lương cao cho nhân viên giỏi Thuật ngữ “Signaling” được sử dụng để khuyến khích ứng viên cung cấp thông tin chi tiết về bản thân, chẳng hạn như bằng cấp chuyên môn, nhằm giúp nhà tuyển dụng đánh giá chính xác hơn về năng lực của họ Việc này sẽ giảm thiểu sự không cân xứng thông tin giữa hai bên, góp phần nâng cao hiệu quả tuyển dụng (Spence, 1973).
Lý thuyết tín hiệu trong thị trường chứng khoán nhấn mạnh sự không cân xứng thông tin giữa người điều hành và người giao quyền Để đảm bảo các bên liên quan có đủ thông tin để đánh giá chính xác tình hình hoạt động của doanh nghiệp, thị trường yêu cầu công bố thông tin chất lượng, bao gồm hiệu quả sản xuất kinh doanh, giá trị thương hiệu và tiềm năng phát triển của công ty.
2.3.2 Lý thuyết đại diện (Agency theory)
Sự xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và cổ đông thường xảy ra khi nhà quản lý điều chỉnh kết quả kinh doanh để tư lợi, đặc biệt khi tỷ lệ vốn góp của họ thấp Nếu họ sở hữu 100% vốn công ty, quyết định kinh tế sẽ tối đa hóa lợi ích cá nhân và lợi ích công ty Tuy nhiên, trong các công ty cổ phần đại chúng, tỷ lệ vốn góp của nhà quản lý thường không cao, dẫn đến mong muốn nhận lợi tức lớn hơn Điều này khiến họ có thể thực hiện hành vi thay đổi kết quả lợi nhuận để nâng cao tiền thưởng, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích dài hạn của cổ đông Khi các nhà đầu tư ủy quyền cho nhà quản lý, mối quan hệ giữa “người ủy quyền” và “người đại diện” phát sinh, với mục tiêu là nâng cao chất lượng quản trị công ty và mang lại lợi ích tối đa cho cổ đông Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường vốn, sự xung đột lợi ích này lại trở nên phức tạp hơn.
36 phong nghiên cứu và tìm hiểu sự xung đột lợi ích này và sau đó được Jensen and Meckling (1976) phát triển thành lý thuyết đại diện
Lý thuyết đại diện nhấn mạnh hành vi tư lợi của người điều hành doanh nghiệp trong quản lý, khi họ thường ưu tiên lợi ích cá nhân hơn là lợi ích tối đa cho tổ chức Sự xung đột lợi ích gia tăng, đặc biệt ở các công ty lớn, khi có sự không cân xứng thông tin giữa nhà quản lý và cổ đông Nhà quản lý, với kiến thức và kinh nghiệm vượt trội, có thể lợi dụng thông tin để trục lợi nếu không có cơ chế giám sát hiệu quả Do đó, việc thiết lập cơ chế giám sát thích hợp là cần thiết để giảm thiểu xung đột lợi ích và bảo vệ quyền lợi của cổ đông khỏi thông tin không chính xác.
Jensen và Meckling (1976) cùng Godfrey et al (2003) chỉ ra rằng cổ đông thường phải đối mặt với “hai loại chi phí đại diện: chi phí giám sát và chi phí ràng buộc” Chi phí giám sát bao gồm chi phí thưởng cho các nhà điều hành, dựa trên kết quả hoạt động kinh doanh, và chi phí thuê kiểm toán viên độc lập để kiểm tra báo cáo tài chính Mục tiêu của chi phí thưởng là khuyến khích nhà quản lý chịu trách nhiệm với cổ đông Bên cạnh đó, chi phí ràng buộc nhằm giảm thiểu hành động gây thiệt hại từ phía nhà quản lý, từ đó tăng cường niềm tin của cổ đông vào việc bảo đảm lợi ích của họ Sự độc lập trong quản lý giúp giảm chi phí đại diện và nâng cao lợi ích cho cổ đông Nghiên cứu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao kiến thức và kỹ năng của Hội đồng quản trị cũng như nhân viên trong cơ chế giám sát.
Theo Epstein et al (2010), việc có một Hội đồng Quản trị (HĐQT) và cơ chế giám sát chuyên môn cao sẽ giúp giảm thiểu hành vi tư lợi của các nhà điều hành công ty, từ đó hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với công ty và cổ đông.
Lý thuyết này áp dụng vào thị trường chứng khoán cho thấy rằng ý chí và quan điểm của người điều hành trong tổ chức ảnh hưởng đến quá trình làm việc của kiểm toán viên khi thực hiện nhiệm vụ Điều này dẫn đến tác động đến chất lượng dịch vụ kế toán của báo cáo tài chính được công bố.
2.3.3 Lý thuyết phát triển nhận thức đào tạo
Lý thuyết phát triển nhận thức đạo đức được phát triển bởi Kohlberg trong
Học thuyết về sự phát triển nhận thức đạo đức, được công bố vào năm 1971 bởi Lawrence Kohlberg, nghiên cứu giả thuyết rằng cá nhân phát triển tư duy cá nhân thông qua các tình huống đạo đức Kohlberg chỉ ra một chuỗi giai đoạn phát triển, cho thấy cách mà cá nhân tái cấu trúc suy nghĩ về các vấn đề xã hội và đạo đức, tương tự như sự phát triển từ tư duy cụ thể đến tư duy trừu tượng Ông cũng khẳng định rằng những giai đoạn này diễn ra trên tất cả các nền văn hóa, cung cấp lời giải thích cho quá trình phát triển tư duy của cá nhân về các vấn đề xã hội và đạo đức.
Trong lĩnh vực kiểm toán, kiểm toán viên (KTV) đại diện cho doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng, và được đào tạo để thể hiện bản sắc của tổ chức Bản sắc cá nhân của KTV được hình thành trong bối cảnh xã hội và qua các vấn đề thực tiễn với khách hàng, thông qua các quá trình đào tạo nội bộ Sự chuyển đổi sang giai đoạn tiếp theo trong nghề nghiệp không thể xác định trước quy tắc hành vi đạo đức, vì quy tắc này được xây dựng từ các cuộc thảo luận xã hội, thường bị ảnh hưởng bởi xung đột giữa KTV và khách hàng Quyết định của KTV không chỉ có hậu quả cá nhân mà còn chịu áp lực từ toàn bộ tổ chức Khi bảo vệ quy tắc đạo đức, KTV thường phản ánh quan niệm cá nhân và lý do để hành động theo kỳ vọng của tổ chức Các nghiên cứu trước đây đã áp dụng lý thuyết này để đánh giá sự phát triển đạo đức của trợ lý KTV và KTV.
38 luận rằng mức độ lý uận của cả hai nhóm thấp hơn so với các nhóm tham chiếu khác, có thể là do bản chất của nghề nghiệp (Buchan, 2005)
Các học giả đề xuất rằng việc đào tạo nâng cao trình độ lý luận đạo đức cho các KTV sẽ giúp họ có những xét đoán phù hợp hơn với TĐHNNN Kahn và cộng sự (1964) đã giới thiệu lý thuyết vai trò, cho rằng môi trường tổ chức ảnh hưởng đến kỳ vọng cá nhân về vai trò của họ Những kỳ vọng này liên quan đến các CMKT và áp lực hành động theo kỳ vọng, và có thể xuất phát từ vai trò, con người đảm nhận vai trò, xã hội và yêu cầu từ người khác Sự mơ hồ về vai trò có thể dẫn đến sự không hài lòng, lo lắng và hiệu suất kém, đồng thời gia tăng khi độ phức tạp của tổ chức vượt quá khả năng hiểu biết của cá nhân.
Theo lý thuyết của Rizzo và cộng sự (1970), khi các hành vi mong đợi của cá nhân không nhất quán, họ sẽ trải qua căng thẳng, dẫn đến sự bất mãn và hiệu suất làm việc kém hơn Điều này cho thấy vai trò có thể ảnh hưởng tiêu cực đến trạng thái tâm lý của cá nhân, làm giảm cam kết của họ Đối với KTV, kỳ vọng có thể đến từ ban quản trị hoặc đồng nghiệp dựa trên hiệu suất công việc Các cá nhân và tổ chức khác nhau có thể hình thành những kỳ vọng khác nhau về vai trò hiện tại Vì mỗi cá nhân thường đảm nhận nhiều vai trò xã hội, sự mâu thuẫn giữa các yêu cầu vai trò có thể xảy ra, như Kahn và cộng sự đã chỉ ra.
Xung đột vai trò, như được mô tả bởi (1964), có thể ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của kiểm toán viên (KTV) theo Ahmad và Taylor (2009) Lathifah (2008) chỉ ra rằng KTV phải đảm nhiệm hai vai trò: một là chuyên gia tuân thủ quy tắc ứng xử trong lĩnh vực kiểm toán, hai là thành viên của doanh nghiệp kiểm toán Trong bối cảnh này, KTV có thể gặp phải xung đột giữa các giá trị của tổ chức và những giá trị nghề nghiệp, dẫn đến sự mơ hồ về vai trò mà họ phải đối mặt.
39 phải đối mặt với các vấn đề khác biệt hơn và cần tăng cường sự cam kết trong suốt cuộc kiểm toán để thể hiện tính độc lập.
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CLDVKT BCTC NHTM
2.4.1 Quy mô của doanh nghiệp kiểm toán
Nghiên cứu của các tác giả DeAngelo (1981), Dopuch & Simunic (1982), Deis & Giroux (1992), Nichol & Smith (1983) và Wyer, White & Janson (1988) đã chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa quy mô của doanh nghiệp kiểm toán, năng lực của kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán Các phát hiện này cho thấy có sự khác biệt giữa chất lượng thực tế, chất lượng trong nhận thức và một số trường hợp không có sự khác biệt về chất lượng kiểm toán.
Nghiên cứu cho thấy quy mô của các doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) ảnh hưởng đến năng lực của kiểm toán viên (KTV), với các DNKT lớn được coi là có năng lực kiểm toán tốt hơn và nhận được phí kiểm toán cao hơn so với các công ty nhỏ Các DNKT quy mô lớn có khả năng thu hút KTV có kỹ năng và kinh nghiệm cao, từ đó thực hiện kiểm toán hiệu quả hơn Cụ thể, các DNKT lớn thường có danh tiếng tốt, thực hiện quy trình kiểm toán đa dạng và chất lượng dịch vụ kiểm toán cao hơn Hơn nữa, các công ty trong nhóm Big 8 ít bị kiện tụng hơn, đồng thời có khả năng phát hiện vấn đề hoạt động liên tục của khách hàng tốt hơn Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các DNKT không thuộc nhóm Big 5 nhưng có quy mô lớn vẫn có sự tuân thủ và chất lượng công bố thông tin cao hơn so với các công ty nhỏ hơn không thuộc nhóm này.
Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt thực tế về chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) giữa các công ty có quy mô khác nhau Tuy nhiên, có sự khác biệt trong nhận thức về CLDVKT, đặc biệt là ở mức giá phí kiểm toán mà các công ty sẵn sàng chi trả cho dịch vụ này.
Nghiên cứu cho thấy rằng các công ty kiểm toán thuộc Big 8 thường có chất lượng dịch vụ kiểm toán cao hơn, với giá cổ phiếu của khách hàng sử dụng dịch vụ này cũng cao hơn (Palmrose - 1986; Francis & Simon - 1987; Menon & Williams - 1991) Thông tin liên quan đến các công ty này được xem là đáng tin cậy hơn so với các công ty kiểm toán không thuộc Big 8 (Jang & Lin - 1993) Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại không đồng tình với quan điểm này, cho rằng không có sự khác biệt rõ rệt về chất lượng dịch vụ giữa các công ty kiểm toán lớn và nhỏ, cũng như không có sự khác biệt đáng kể về phí kiểm toán giữa hai nhóm này (Simunic, 1980) Nichol & Smith (1983) chỉ ra rằng việc chuyển đổi từ công ty kiểm toán nhỏ sang Big 8 có thể không mang lại lợi ích rõ ràng.
Nghiên cứu của Phan Thanh Hải (2014) chỉ ra rằng, không có sự tạo thêm lợi ích đáng kể về cổ phiếu cho khách hàng kiểm toán từ các công ty kiểm toán Cụ thể, ảnh hưởng này giữa các doanh nghiệp kiểm toán quy mô vừa và nhỏ là không đáng kể.
Các doanh nghiệp kiểm toán lớn thường sở hữu hệ thống kiểm soát chất lượng tốt, điều này giúp đảm bảo chất lượng cao trong công việc kiểm toán Nghiên cứu của Deangelo đã chỉ ra mối liên hệ này.
Nghiên cứu của năm 1981 chỉ ra rằng chất lượng kiểm toán có mối quan hệ tích cực với quy mô của công ty kiểm toán; các công ty lớn và có uy tín thường cung cấp dịch vụ kiểm toán độc lập chất lượng cao hơn, ngay cả khi các kiểm toán viên có khả năng kỹ thuật tương đương Tương tự, Lennox (1999) cũng khẳng định rằng quy mô công ty kiểm toán có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng dịch vụ kiểm toán Nếu quy trình kiểm toán báo cáo tài chính được thực hiện chặt chẽ, với sự giám sát từ các cấp quản lý như chủ nhiệm kiểm toán và ban kiểm soát chất lượng, sẽ giúp hạn chế sai sót nghiêm trọng và nâng cao chất lượng báo cáo kiểm toán Mặc dù có một số nghiên cứu cho kết quả khác nhau, nhưng phần lớn đều cho thấy quy mô của doanh nghiệp kiểm toán là yếu tố cơ bản để đánh giá chất lượng kiểm toán độc lập Do đó, tác giả đã chọn quy mô của doanh nghiệp kiểm toán là một trong những yếu tố ảnh hưởng trong mô hình nghiên cứu.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng việc giảm chi phí, đặc biệt là khi giá phí của cuộc kiểm toán năm đầu tiên thấp hơn mức chi phí thực tế, có thể tác động đến chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Hạ thấp chi phí (lowballing) có thể làm giảm quỹ thời gian và ngân sách cho cuộc kiểm toán, gây áp lực cho kiểm toán viên (KTV) trong việc phát hiện các sai phạm trọng yếu do lo ngại mất khách hàng.
DeAngelo (1981) đã phát triển mô hình phí kiểm toán năm đầu tiên, liên quan đến chi phí khởi động khi thay đổi công ty kiểm toán Mô hình này chỉ ra rằng công ty kiểm toán hiện tại có thể đặt mức phí thấp hơn chi phí thực tế trong năm đầu tiên, từ đó tạo ra lợi nhuận cao hơn trong tương lai Sự cần thiết phải có mức giảm giá cho năm đầu tiên nhằm đạt được lợi nhuận tăng thêm tạo ra mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với khách hàng DeAngelo đã chỉ ra rằng mối quan hệ này có thể làm giảm tính độc lập của kiểm toán viên, dẫn đến suy giảm chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) Do đó, tác động của phí kiểm toán đến CLDVKT được nhiều nhà kinh tế đồng thuận, với quan điểm rằng việc giảm phí kiểm toán thường đi kèm với sự giảm sút chất lượng dịch vụ.
Theo DeAngelo (1981), chất lượng dịch vụ kiểm toán (CLDVKT) phụ thuộc vào tính độc lập và năng lực của kiểm toán viên (KTV) Dịch vụ phi kiểm toán không chỉ nâng cao kiến thức của KTV về khách hàng mà còn tăng khả năng phát hiện sai sót trong báo cáo tài chính (BCTC) (Ashton, 1991) Hiệu quả của việc “lan tỏa tri thức” từ dịch vụ phi kiểm toán đến dịch vụ kiểm toán được nhấn mạnh bởi Simunic (1984) Phát hiện này cũng được xác nhận bởi các nghiên cứu của Antle và cộng sự (2002), Kinney và cộng sự.
Các nghiên cứu từ Lennox (1999) và Myungsoo Son (2005) chỉ ra rằng, mặc dù dịch vụ phi kiểm toán có tác động tích cực, nhưng chúng cũng làm giảm tính độc lập của kiểm toán viên, dẫn đến chất lượng dịch vụ kiểm toán bị suy giảm.
Nghiên cứu của Rani, Arie và Charles (2007) về mối quan hệ giữa phí kiểm toán và chất lượng kiểm toán độc lập tại Mỹ trong giai đoạn 2000-2003 cho thấy rằng yếu tố kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hành vi của kiểm toán viên, từ đó tác động đến chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Nghiên cứu của năm 2010 chỉ ra rằng một số công ty kiểm toán thực hiện cắt giảm giá phí kiểm toán nhằm giữ chân khách hàng, duy trì tăng trưởng doanh thu và mở rộng thị phần, tuy nhiên điều này có thể làm suy giảm tính độc lập của kiểm toán viên và gây ra vấn đề về chất lượng dịch vụ kiểm toán Tương tự, nghiên cứu của Madusanka (2015) cũng khẳng định rằng giá phí kiểm toán ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên, từ đó tác động đến chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Giá phí kiểm toán là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kiểm toán độc lập, theo các kết quả nghiên cứu đã được đưa ra.
2.4.3 Tính độc lập của Kiểm toán viên