1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động FACTORING của các ngân hàng thương mại việt nam,khoá luận tốt nghiệp

87 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 87
Dung lượng 356,41 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG (10)
    • 1.1. TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ FACTORING (10)
      • 1.1.1 Khái niệm Factoring (10)
      • 1.1.2. Chức năng của Factoring (11)
      • 1.1.3. Phân loại Factoring (13)
      • 1.1.4. Quy trình nghiệp vụ Factoring (14)
      • 1.1.5. Lợi ích và hạn chế của Factoring (18)
    • 1.2. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG FACTORING CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (21)
      • 1.2.1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động Factoring (21)
      • 1.2.2. Các loại rủi ro trong hoạt động Factoring (21)
      • 1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động Factoring (24)
    • 1.3. KINH NGHIỆM VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG (26)
      • 1.3.1. Kinh nghiệm về hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring của một số quốc gia ................................................................„...............................T (26)
      • 1.3.2. Bài học đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam (28)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG FACTORING TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (31)
    • 2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG FACTORING TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (31)
      • 2.1.1. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động Factoring tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam (31)
      • 2.1.2. Số lượng các ngân hàng tham gia hoạt động Factoring (35)
      • 2.1.3. Quy mô, doanh số Factoring (37)
      • 2.1.5. Đánh giá tình hình thực hiện hoạt động Factoring tại Việt Nam (42)
    • 2.2. THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG FACTORING TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (44)
      • 2.2.1. Rủi ro đối tác (44)
      • 2.2.3. Rủi ro tín dụng (46)
      • 2.2.4. Rủi ro thu nợ (48)
      • 2.2.5. Rủi ro tỷ giá (49)
      • 2.2.6. Rủi ro quốc gia, rủi ro chính trị, pháp lý (50)
    • 2.3. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG FACTORING CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM (52)
      • 2.3.1. Nguyên nhân khách quan (52)
      • 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan (56)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG (59)
    • 3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG FACTORING Ở VIỆT NAM 52 1. Sự cần thiết phát triển hoạt động Factoring ở Việt Nam (59)
      • 3.1.2. Định hướng phát triển Factoring của các Ngân hàng thương mại Việt Nam (62)
    • 3.2. GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG (63)
      • 3.2.1. Hoàn thiện các quy trình, các văn bản nội bộ (63)
      • 3.2.2. Xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát bên bán bán hàng và bên mua khi (64)
      • 3.2.3. Tăng cường công tác quản trị rủi ro và kiểm soátnội bộ (65)
      • 3.2.4. Tăng cường chất lượng khâu thẩm định (66)
      • 3.2.5. Xây dựng mạng lưới thông tin về khách hàng (67)
      • 3.2.6. Phát triển hệ thống các đại lý (67)
      • 3.3.1. Kiếnnghị với Ngân hàng Nhà nước (70)
      • 3.3.2. Kiếnnghị với các Ngân hàng thương mạiViệt Nam (72)
      • 3.3.3. Kiếnnghị đối với khách hàng (73)
      • 3.3.4. Kiếnnghị về công tác đào tạo trongcác trường đại học, cao đẳng (74)
  • KẾT LUẬN (29)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (78)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG

TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ FACTORING

Các giao dịch Factoring phải tuân thủ khung pháp lý chuẩn Trên thế giới, có nhiều văn bản pháp lý khác nhau điều chỉnh dịch vụ Factoring, dẫn đến sự khác biệt trong định nghĩa về Factoring.

Theo công ước UNIDROIT về Factoring quốc tế, nghiệp vụ Factoring được định nghĩa là hình thức tài trợ thông qua việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng Tổ chức tài trợ thực hiện ít nhất hai trong số các chức năng như: cung cấp vốn cho bên cung ứng và quản lý các khoản nợ.

• Tài trợ bên cung ứng (gồm cho vay và ứng truớc tiền).

• Quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu.

• Thu nợ các khoản phải thu.

• Bảo đảm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng.

Theo Tổ chức Bao thanh toán quốc tế - FCI, bao thanh toán là dịch vụ tài chính toàn diện, kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ Đây là thỏa thuận giữa đơn vị bao thanh toán (factor) và người cung ứng hàng hóa (seller) Theo thỏa thuận, đơn vị bao thanh toán sẽ mua lại các khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua (buyer) trong quan hệ mua bán Bao thanh toán có hai hình thức chính: bao thanh toán xuất khẩu và bao thanh toán nội địa.

Theo Quyết định 1096/2004/QĐ - NHNN và Quyết định số 30/2008/QĐ - NHNN, bao thanh toán được định nghĩa là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng Hình thức này thực hiện thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ giao dịch mua bán hàng hóa, đã được thỏa thuận giữa bên bán và bên mua trong hợp đồng.

Factoring là một công cụ tài chính quan trọng, cung cấp cho người bán hoặc doanh nghiệp bốn dịch vụ thiết yếu: tài trợ vốn ngắn hạn, thu tiền thanh toán từ người mua, quản lý sổ bán hàng và bảo đảm rủi ro Sự khác biệt giữa các định nghĩa chính nằm ở số lượng dịch vụ mà đơn vị bao thanh toán (Factor) cung cấp trong gói dịch vụ của mình.

Factoring cung cấp nhiều chức năng quan trọng, bao gồm dịch vụ thu nợ, quản lý sổ sách kế toán bán hàng, tư vấn, tài trợ ngắn hạn và bảo hiểm rủi ro.

1.1.2.1 Quản lý sổ sách kế toán bán hàng

Việc quản lý sổ sách kế toán bán hàng sẽ tuân theo một cơ chế thực hiện dịch vụ khá chặt chẽ:

Trước khi chuyển giao sổ sách kế toán bán hàng cho nhà Factor, nhà cung cấp cần chuẩn bị các hóa đơn chưa thanh toán và các chứng từ liên quan, được phân loại rõ ràng theo từng khách hàng.

Sau khi thu thập các bản sao hóa đơn và lập bảng kê chuyển nhượng quyền sở hữu, nhà cung cấp sẽ chuyển giao các giấy tờ cho nhà Factor Sau khi chấp nhận bảng danh mục, nhà Factor sẽ tiếp nhận và quản lý các khoản nợ này.

• Đến thời điểm thanh toán, nhà Factor thay mặt doanh nghiệp thu tiền hàng.

• Nhà Factor duy trì sổ sách bán hàng cho từng khách hàng riêng biệt bằng các phương thức sau:

Phương thức thu nợ riêng biệt cho phép mỗi khoản phải thu được ghi nhận bằng một tài khoản độc lập, giúp nhà Factor có khả năng kiểm soát chặt chẽ hơn đối với từng khoản nợ cụ thể.

Phương thức số dư ghi chép các khoản nợ theo thứ tự thời gian đến hạn, và việc thu nợ được thực hiện định kỳ dựa trên số dư tích lũy ròng vào cuối kỳ.

Chức năng này mang lại rất nhiều lợi ích:

• Tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp

Factoring giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí nhân sự, đặc biệt là các doanh nghiệp đang phát triển nhanh chóng Khi các khoản phải thu gia tăng, việc quản lý chúng thường đòi hỏi thêm nhân viên Tuy nhiên, dịch vụ factoring giúp hạn chế nhu cầu thuê thêm nhân viên không cần thiết, từ đó tối ưu hóa nguồn lực và chi phí cho doanh nghiệp.

- Giảm các chi phí khác nhu: chi phí điện thoại, fax, di chuyển, để thu đuợc tiền từ các khoản phải thu.

❖ Giảm thời gian quản lý: doanh nghiệp không phải quản lý các khoản phải thu, giúp doanh nghiệp tập trung vào những công việc khác.

1.1.2.2 Dịch vụ thu nợ Đối với các doanh nghiệp, việc thu nợ là một vấn đề tế nhị vì phải thực hiện thuờng xuyên và dễ nảy sinh tranh chấp nên việc tìm một tổ chức đảm nhận dịch vụ này là cần thiết Nhà Factor là một tổ chức chuyên nghiệp giúp đòi nợ cho doanh nghiệp từ nguời mua, giúp doanh nghiệp thu hồi những khoản nợ hiện tại, hạn chế nợ phải thu khó đòi.

Quá trình thu nợ của nhà Factor gồm các buớc sau:

- Nhà Factor gửi bản sao kê các khoản phải thu chua đến hạn cho nguời mua và gửi lệnh thu nợ khi đến hạn.

Khi khoản phải thu quá hạn một thời gian nhất định, nhà Factor cần nhanh chóng nhắc nhở người mua về việc thanh toán nợ Họ có thể thực hiện việc này thông qua các hình thức như gửi thông báo, gọi điện thoại, hoặc tổ chức cuộc gặp trực tiếp để thảo luận về vấn đề trả nợ.

- Nhà Factor tiến hành các thủ tục pháp lý đối với khoản nợ quá hạn đuợc điều chỉnh bởi các nguồn luật nhu: hối phiếu, séc, kỳ phiếu.

Chức năng này giúp người bán tập trung vào sản xuất và bán hàng hóa mà không phải lo lắng về việc thu tiền từ khách hàng Điều này không chỉ bảo vệ mối quan hệ làm ăn mà còn giúp giảm thiểu rủi ro từ việc người mua không thanh toán Các nhà Factor chuyên nghiệp sẽ thu tiền hàng một cách dễ dàng và nhanh chóng, từ đó tiết kiệm chi phí tài chính như chi phí cơ hội và lãi vay.

Nhà Factor thường ứng trước một tỷ lệ phần trăm trên tổng số tiền phải thu của khách hàng ngay khi mua các khoản phải thu Họ áp dụng mức lãi suất chiết khấu cho khoản ứng trước này, trong khi phần còn lại được giữ lại để dự phòng rủi ro.

RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG FACTORING CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1 Khái niệm về rủi ro trong hoạt động Factoring

Rủi ro là một yếu tố không thể tránh khỏi trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, xuất hiện trong hầu hết các hoạt động của con người Khi có rủi ro, việc dự đoán chính xác kết quả trở nên khó khăn, và sự tồn tại của nó có thể gây ra những tổn thất không mong muốn Nguy cơ rủi ro xuất hiện bất kỳ khi nào hành động của con người dẫn đến khả năng đạt được hoặc mất mát mà không thể kiểm soát.

Quan điểm về rủi ro được chia thành hai trường phái chính: trường phái truyền thống và trường phái trung hòa Trường phái truyền thống định nghĩa rủi ro là những thiệt hại, mất mát, và nguy hiểm liên quan đến khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người Ngược lại, trường phái trung hòa có cách nhìn khác về rủi ro.

“rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường đnạc".

Mỗi quan điểm về rủi ro trong hoạt động Factoring đều nhấn mạnh đến các sự kiện có thể gây tổn thất hoặc mang lại cơ hội Bài viết này sẽ phân tích những biến cố có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của các bên tham gia Factoring, từ đó đề xuất các giải pháp hiệu quả nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình này.

Hoạt động Factoring, tương tự như các hình thức thanh toán quốc tế khác, tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn Rủi ro trong Factoring phát sinh từ quá trình thực hiện giao dịch quốc tế, liên quan đến mối quan hệ giữa các bên như người bán, người mua, nhà Factor và các tổ chức tài chính trung gian Ngoài ra, các yếu tố khách quan như thiên tai, chiến tranh và chính trị cũng có thể gây ra rủi ro trong hoạt động này.

Rủi ro trong hoạt động Factoring có những điểm tương đồng với rủi ro trong giao dịch thương mại nội địa, nhưng khoảng cách địa lý, sự khác biệt về văn hóa và luật pháp làm gia tăng khó khăn và hậu quả.

1.2.2 Các loại rủi ro trong hoạt động Factoring

Sự khác biệt về địa lý, ngôn ngữ, hệ thống pháp luật và tập quán kinh doanh tạo ra nhiều rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động thương mại quốc tế, đặc biệt là trong nghiệp vụ Factoring Ngoài các rủi ro vốn có của ngân hàng thương mại như rủi ro tín dụng, lãi suất, thanh khoản, hoạt động và thị trường, việc đánh giá rủi ro là cần thiết Để đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro, chúng ta có thể phân loại rủi ro theo nguyên nhân phát sinh của chúng.

Rủi ro tín dụng là rủi ro mất khả năng thanh toán của một trong các bên tham gia vào hoạt động Factoring.

> Khi quá hạn các khoản phải thu mà người mua không thanh toán hoặc mất khả năng thanh toán

• Trong trường hợp Factoring miễn truy đòi, nhà Factor sẽ chịu toàn bộ rủi ro tín dụng.

Trong dịch vụ Factoring miễn truy đòi, nhà Factor có quyền yêu cầu hoàn trả khoản tiền đã tạm ứng cho người bán Tuy nhiên, nếu người bán không thể hoàn trả hoặc mất khả năng thanh toán, nhà Factor sẽ không thể đòi lại số tiền đó.

• Người bán hàng không đòi được tiền từ người mua hàng, trong khi phải trả lại số tiền đã tạm ứng/thanh toán từ nhà Factor.

> Khi có tranh chấp giữa người mua và người bán

Nếu người bán bị xác định hoặc bị kết luận là có lỗi, nhà Factor có quyền yêu cầu người bán hoàn lại số tiền đã ứng trước hoặc thanh toán mà người bán không trả lại hoặc không còn khả năng thanh toán.

Người mua, khi bị chứng minh hoặc phán quyết có lỗi, sẽ phải chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ giá trị hàng hóa cùng với các chi phí liên quan đến kiện tụng Tuy nhiên, trong trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán hoặc rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.

Rủi ro gian lận là mối nguy hiểm mà nhà Factor phải đối mặt khi hóa đơn được bao thanh toán không liên quan đến bất kỳ giao dịch thương mại nào Kết quả là, hóa đơn này không có giá trị pháp lý, khiến nhà Factor không thể thu hồi nợ từ người mua.

Bên bán hàng có thể tiếp tục thực hiện bao thanh toán tại tổ chức tín dụng khác, dẫn đến tranh chấp và thiệt hại cho đơn vị bao thanh toán, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi khoản ứng trước cùng với tiền lãi và phí Ngoài ra, đơn vị bao thanh toán cũng phải đối mặt với rủi ro khi bên bán hàng và bên mua thông đồng cung cấp các khoản thu ảo nhằm thực hiện hành vi lừa đảo.

Rủi ro pháp lý có thể phát sinh trong các tranh chấp hoặc khiếu kiện giữa các bên tham gia thanh toán, đặc biệt khi có sự không rõ ràng về tòa án nào sẽ thụ lý và luật pháp của quốc gia nào sẽ được áp dụng Trong bối cảnh Factoring quốc tế, sự tham gia của hai quốc gia làm tăng khả năng xảy ra những rủi ro pháp lý này.

Rủi ro pháp lý chủ yếu xuất phát từ sự khác biệt trong môi trường pháp lý và luật pháp của các bên Nếu các bên không áp dụng chung theo các quy định của luật pháp quốc tế, những điều luật chung có thể dẫn đến tranh chấp.

Trong hoạt động Factoring, các bên tham gia có thể đối mặt với rủi ro tỷ giá do sự biến động của tỷ giá hối đoái giữa thời điểm ứng trước tiền cho người bán và thu nợ từ người mua Rủi ro này chủ yếu xảy ra trong các giao dịch Factoring quốc tế, trong khi các nghiệp vụ Factoring nội địa không gặp phải vấn đề này.

Khi tỷ giá yết trực tiếp giảm, giá trị các khoản phải thu cũng giảm theo, dẫn đến thiệt hại cho nhà Factor trong quá trình chuyển đổi từ ngoại tệ sang nội tệ hoặc khi ứng trước tiền hàng bằng ngoại tệ cho người bán.

KINH NGHIỆM VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG

- BÀI HỌC ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

1.3.1 Kinh nghiệm về hạn chế rủi ro trong hoạt động Factoring của một số quốc gia

Các tổ chức cung ứng dịch vụ Factoring lớn trên thế giới rất chú trọng đến việc phòng ngừa rủi ro trong hoạt động này Với nhiều năm kinh nghiệm và hệ thống chi nhánh rộng khắp, họ có khả năng quản lý rủi ro hiệu quả hơn Những bài học quý giá từ các tổ chức này sẽ giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam cải thiện công tác phòng ngừa rủi ro, phù hợp với thực trạng hoạt động của từng ngân hàng.

Kinh nghiệm hạn chế rủi ro ở Anh cho thấy tầm quan trọng của các Hiệp hội liên kết tầm cỡ quốc gia, không chỉ ở Anh mà còn ở các quốc gia như Chile, Italia và các nước Bắc Mỹ Việc thành lập Hiệp hội các công ty Factoring quốc gia sẽ hỗ trợ tích cực cho các công ty thành viên và thúc đẩy hoạt động Factoring Từ năm 1976, Hiệp hội các nhà bao thanh toán Anh Quốc (ABF) đã được thành lập, và hiện nay đã sáp nhập với CFA European Chapter, đổi tên thành Hiệp hội trên cơ sở giá trị tài sản - ABFA Sự phát triển này đánh dấu khả năng cung cấp dịch vụ tài chính hỗ trợ của các đơn vị bao thanh toán ở Anh.

Tham gia ABFA, các đơn vị bao thanh toán tại Anh được tiếp cận mạng lưới thông tin rộng lớn và chính xác về khách hàng, cùng với các thông tin mới nhất về chính sách và pháp luật toàn cầu Điều này hỗ trợ tối đa cho các đơn vị bao thanh toán, giúp giảm thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng và đánh giá khách hàng một cách chính xác, từ đó hạn chế rủi ro tín dụng và gian lận.

Kinh nghiệm hạn chế rủi ro ở Hungary

Yếu tố con người đóng vai trò quyết định trong nghiệp vụ Factoring, đặc biệt là trong các giao dịch quốc tế Để triển khai hiệu quả, nguồn nhân lực cần có trình độ chuyên môn cao về tài chính, tín dụng ngân hàng và xuất nhập khẩu Các nhà cung cấp dịch vụ bao thanh toán phải thiết lập các phòng ban chuyên trách để phát triển sản phẩm Tại Hungary vào những năm 90, rủi ro trong hoạt động Factoring gia tăng do lừa đảo, xuất phát từ sự thiếu hụt chuyên môn của nhân viên thẩm định Để tránh những thất bại tương tự, các tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ Factoring cần chú trọng nâng cao nghiệp vụ và đào tạo nhân lực thường xuyên nhằm giảm thiểu rủi ro lừa đảo.

Kinh nghiệm hạn chế rủi ro ở Trung Quốc

Nghiệp vụ Factoring thường thực hiện trên cơ sở miễn truy đòi, trong khi Factoring nội địa chủ yếu có truy đòi Hoạt động Factoring được lựa chọn theo ngành nghề, với thép, xe đạp và dệt may là những lĩnh vực đang phát triển, giúp thu hồi các khoản phải thu dễ dàng và giảm thiểu rủi ro tín dụng cũng như rủi ro thu nợ Các công ty Factoring hàng đầu tại Trung Quốc đang mở rộng thị trường sang Mỹ, Anh, Hong Kong và các quốc gia phát triển khác, nhằm đa dạng hóa thị trường và mở rộng đối tượng khách hàng, từ đó hạn chế những rủi ro phi hệ thống trong hoạt động Factoring.

Kinh nghiệm hạn chế rủi ro ở Pháp, Đan Mạch

Rủi ro trong hoạt động Factoring, giống như nhiều hình thức thanh toán quốc tế khác, chủ yếu xuất phát từ khách hàng Để giảm thiểu rủi ro này, các doanh nghiệp cần thiết lập tiêu chí cụ thể khi lựa chọn khách hàng, bao gồm yêu cầu về tình hình tài chính và năng lực tín dụng, thay vì áp dụng một cách chung cho tất cả doanh nghiệp.

Nhiều công ty Factoring tại Pháp áp dụng các điều kiện bảo đảm nhằm giảm thiểu rủi ro, chẳng hạn như BNP Paribas yêu cầu khách hàng phải là các doanh nghiệp có xếp hạng từ 1 đến 13 Trong khi đó, tại Pháp, Đan Mạch và Malaysia, các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là đối tượng khách hàng chính cho dịch vụ Factoring.

Kinh nghiệm hạn chế rủi ro ở Ân Độ, Bulgari

Môi trường pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của hoạt động Factoring Một hành lang pháp lý thuận lợi và thông thoáng không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro pháp lý mà còn hạn chế rủi ro gian lận và rủi ro tín dụng.

Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ Factoring, Bulgari gặp khó khăn do thiếu luật điều chỉnh chuyển nhượng các khoản phải thu, cùng với việc pháp luật cho phép chủ nợ đặt điều khoản cấm chuyển nhượng các khoản này cho bên thứ ba Điều này buộc người mua phải thanh toán cho người bán thay vì cho các nhà Factor, gây ra rủi ro tín dụng nếu người bán mất khả năng thanh toán hoặc lừa đảo Tương tự, tại Ấn Độ, luật pháp không yêu cầu người mua thanh toán cho nhà Factor, làm tăng nguy cơ rủi ro cho các nhà Factor.

1.3.2 Bài học đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam

Việt Nam đang phát triển nghiệp vụ Factoring, do đó, việc học hỏi kinh nghiệm để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động này là rất cần thiết Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cần chú trọng phân loại khách hàng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên và không ngừng cải thiện công nghệ thông tin để phòng ngừa rủi ro hiệu quả trong hoạt động Factoring.

Pháp luật nên cho phép chuyển nhượng nợ, đồng thời đảm bảo rằng người được chuyển nhượng nợ có quyền đối với tài sản phát mại khi người chuyển nhượng nợ và con nợ rơi vào tình trạng phá sản Ngoài ra, cần quy định người mua phải thanh toán tiền hàng cho công ty Factoring thay vì trực tiếp cho người bán, nhằm giảm thiểu rủi ro và bất lợi cho các tổ chức thực hiện hoạt động Factoring.

Các đơn vị thực hiện hoạt động Factoring cần liên tục nâng cao nghiệp vụ để phòng tránh rủi ro lừa đảo Họ không nên tách rời chức năng bảo hiểm hoặc tài trợ khỏi nhiệm vụ theo dõi và thu nợ để đảm bảo hiệu quả trong công việc.

Các đơn vị cung cấp dịch vụ Factoring cần xác định rõ khách hàng mục tiêu và thiết lập các tiêu chí lựa chọn, đánh giá khách hàng nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động Factoring.

Các công ty Factoring cần nhận được sự hỗ trợ tài chính từ các Quỹ bảo hiểm tín dụng để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động của mình Sự hợp tác này không chỉ giúp hạn chế rủi ro mà còn tận dụng kinh nghiệm quý báu từ các Quỹ bảo hiểm, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động.

Cần thiết lập một hiệp hội liên kết quốc gia để hỗ trợ các đơn vị thực hiện nghiệp vụ Factoring, cung cấp thông tin, kiến thức và cập nhật kịp thời các thay đổi của thị trường, đồng thời tư vấn về pháp luật cho các đơn vị này.

THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG FACTORING TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG FACTORING TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

2.1.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động Factoring tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

2.1.1.1 Các văn bản pháp lý quốc tế điều chỉnh hoạt động Factoring a Công ước UNIDROIT về Factoring quốc tế

Công ước UNIDROIT về Factoring quốc tế, ký tại Ottawa vào ngày 28/05/1988, thiết lập các tiêu chuẩn cho dịch vụ Factoring toàn cầu Nó định nghĩa các yếu tố cơ bản của hợp đồng Factoring và quy định các mối quan hệ giữa các bên tham gia giao dịch tài chính này, nhằm đảm bảo sự công bằng và lợi ích cho tất cả các bên liên quan.

Công ước áp dụng cho các hợp đồng Factoring quốc tế, cụ thể là các hợp đồng liên quan đến khoản nợ phát sinh từ giao dịch mua bán hàng hóa giữa bên mua và bên bán có trụ sở tại hai quốc gia khác nhau Điều kiện áp dụng là cả hai quốc gia phải tham gia công ước, hoặc cả hợp đồng Factoring và hợp đồng mua bán đều phải được điều chỉnh bởi luật pháp của các quốc gia tham gia công ước.

Những nội dung chính của Công ước UNIDROIT:

Việc chuyển nhượng các khoản phải thu từ người bán cho đơn vị Factoring vẫn có hiệu lực, ngay cả khi có thỏa thuận cấm chuyển nhượng giữa người bán và người mua Tuy nhiên, điều này sẽ không áp dụng nếu luật quốc gia nơi người mua có trụ sở chính cấm việc chuyển nhượng tại thời điểm ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.

Người mua hàng chỉ có trách nhiệm thanh toán cho đơn vị Factoring khi không biết ai có quyền ưu tiên hơn đối với các khoản nợ Đồng thời, người mua phải nhận được thông báo về việc chuyển nhượng các khoản nợ từ người bán được ủy quyền.

Các quy định trong Công ước về lần chuyển nhượng đầu tiên cũng được áp dụng cho các lần chuyển nhượng tiếp theo, miễn là hợp đồng Factoring không cấm việc chuyển nhượng này.

Thông báo về việc chuyển nhượng tiếp theo cần phải bao gồm thông tin về tất cả các chuyển nhượng trước đó Điều này được quy định trong Công ước Liên hiệp quốc UNCITRAL về việc chuyển nhượng các khoản phải thu trong thương mại quốc tế.

Công ước được Hội đồng chung Liên hợp quốc thông qua vào ngày 12/12/2001 nhằm thống nhất các quy định liên quan đến tài trợ các khoản phải thu Mặc dù được mở để các quốc gia ký kết, UNCITRAL vẫn chưa có hiệu lực do chưa đủ số quốc gia phê duyệt.

Hiện nay, FCI (Factors Chain International) và IFG (International Factors Group) là hai Hiệp hội Factoring quốc tế lớn nhất, với hầu hết các đơn vị Factoring trên thế giới là thành viên của một trong hai Hiệp hội này Các Hiệp hội này thiết lập hệ thống luật riêng để điều chỉnh hoạt động Factoring quốc tế cho các thành viên của họ.

Hiệp hội Factoring quốc tế FCI thiết lập một hệ thống quy tắc nhằm điều chỉnh hoạt động Factoring quốc tế giữa các thành viên, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong giao dịch.

- Thỏa thuận đại lý giữa các thành viên FCI

- Các quy tắc chung về Factoring quốc tế (GRIF -General rules for international)

- Quy tắc sử dụng mạng editfactoring.com, ban hành tháng 3/2002.

- Quy tắc trọng tài FCI ban hành tháng 6/2003.

> Hiệp hội Factoring quốc tế IFG: Hệ thống luật của IFG bao gồm:

- Quy tắc giữa các thành viên

- Các quy tắc chung về hoạt động Factoring quốc tế (GRIF)

- Hướng dẫn DEX quy định quy trình giao dịch giữa các thành viên thông qua mạng Ifexchange.

2.1.1.2 Các văn bản pháp lý quy định về hoạt động Factoring tại Việt Nam a Các văn bản do Ngân hàng nhà nước ban hành

Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định rõ về hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam Các tổ chức tín dụng là đơn vị thực hiện hoạt động Factoring theo quy định của luật này.

❖ Các văn bản dưới luật

Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN đã thiết lập Quy chế hoạt động bao thanh toán cho các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, tạo ra cơ sở pháp lý rõ ràng và riêng biệt cho dịch vụ này Quy chế này chính thức có hiệu lực từ ngày 01/10/2004, góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng.

Công văn số 676/NHNN-CSTT quy định về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ và chuyển nợ quá hạn trong hoạt động bao thanh toán của ngân hàng thương mại Quy định này nhằm hỗ trợ các ngân hàng trong việc quản lý nợ và cải thiện tình hình tài chính của khách hàng, đồng thời đảm bảo sự ổn định cho hệ thống tài chính quốc gia.

Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN được ban hành bởi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vào ngày 16/10/2008, nhằm sửa đổi Quy chế hoạt động bao thanh toán của các Tổ chức tín dụng theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN Quyết định này điều chỉnh các quy định liên quan đến hoạt động bao thanh toán, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển hệ thống tài chính.

> Các quy định cơ bản trong hoạt động Factoring tại các NHTM Việt Nam.

N Về đối tuợng thực hiện

Tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng:

- Ngân hàng thuơng mại nhà nuớc

- Ngân hàng thuơng mại cổ phần

- Ngân hàng 100% vốn nuớc ngoài

- Công ty cho thuê tài chính

Bên cạnh đó, ngân hàng nuớc ngoài đuợc mở chi nhánh tại Việt Nam theo luật Tổchức tín dụng.

Hiện nay, tại Việt Nam, nghiệp vụ Factoring chủ yếu được thực hiện bởi các ngân hàng thương mại (NHTM) Số lượng công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính tham gia vào lĩnh vực này vẫn còn hạn chế, chủ yếu là các công ty tài chính thuộc các tập đoàn lớn như Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam.

✓ Điều kiện để đuợc hoạt động Factoring

❖ Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện hoạt động bao thanh toán trong nước khi tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện sau:

- Có nhu cầu hoạt động bao thanh toán

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ trong ba tháng gần nhất luôn duy trì dưới 5%, đồng thời không vi phạm các quy định về tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng.

THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG FACTORING TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Các ngân hàng thương mại Việt Nam khi tham gia vào hoạt động Factoring phải đối mặt với nhiều rủi ro khác nhau Những rủi ro này bao gồm rủi ro pháp lý, rủi ro trong việc thu hồi nợ, rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp, rủi ro từ đối tác và rủi ro ngoại hối.

Khi thực hiện Factoring, đặc biệt là Factoring quốc tế, việc không nghiên cứu kỹ lưỡng và đánh giá chính xác khách hàng có thể gây ra rủi ro lớn cho ngân hàng Điều này xảy ra khi người xuất khẩu có ý định lừa đảo các đại lý Factor mà không bị phát hiện.

- Ngân hàng TMCP X có trụ sở tại Việt Nam.

- Công ty TNHH xuất khẩu Minh Phát có trụ sở tại Việt Nam.

- Công ty Y có trụ sở tại Hà Lan.

- Hai bên sử dụng phuơng thức thanh toán D/A.

- Ngân hàng M là đại lý Factoring của Ngân hàng X ở bên nuớc nhập khẩu.

Vào ngày 01/07/2014, công ty TNHH xuất khẩu Minh Phát đã trình bộ chứng từ nhờ thu trả chậm D/A 90 ngày, trị giá 50,000 USD, để xuất khẩu cá ba sa cho công ty Y qua ngân hàng thu hộ, đồng thời là NH đại lý Factoring của X tại nước nhập khẩu Mặc dù hàng được giao vào ngày 26/06/2015 và hạn thanh toán là 29/09/2014, công ty Minh Phát đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi tiền hàng, và đến ngày đáo hạn, công ty vẫn chưa nhận được tiền từ đối tác.

- Công ty Y là công ty của ông A đăng ký kinh doanh tại Hà Lan

Trong các giao dịch với doanh nghiệp Việt Nam, phía nhập khẩu thường yêu cầu áp dụng phương thức thanh toán D/A Tuy nhiên, sau khi hàng hóa được giao, đối tác lại không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Ông A, giám đốc công ty X, là người đại diện giao dịch với doanh nghiệp Việt Nam, nhưng khi ký hợp đồng, ông lại sử dụng tư cách pháp nhân của công ty B.

Nhận định một số rủi ro các bên tham gia

Trước tình hình trên, NHTM P đã phải thuê luật sư để nhờ tòa án bắt giữ tài sản mới thu được tiền hàng.

Rủi ro đối tác trong giao dịch thương mại thường xảy ra khi một bên ký hợp đồng với một pháp nhân mà không rõ ràng, dẫn đến việc không thu được tiền hàng và phát sinh tranh chấp Trong trường hợp này, đối tác chỉ đóng vai trò là đại lý cho pháp nhân ký hợp đồng nhập khẩu và không chịu trách nhiệm pháp lý, gây khó khăn cho việc đòi hỏi quyền lợi.

• Rủi ro tín dụng: không thu được tiền hàng từ người đứng ra giao dịch.

Để giảm thiểu rủi ro không thu hồi được tiền hàng khi giao dịch với đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên yêu cầu khách hàng mới cung cấp thông tin đăng ký kinh doanh và thực hiện tra cứu thông tin trước khi thương thảo Hơn nữa, việc sử dụng phương thức thanh toán an toàn và chặt chẽ là rất cần thiết để đảm bảo việc thu hồi tiền hàng được thực hiện hiệu quả.

• Các doanh nghiệp cần chú ý đến tư cách pháp nhân, công ty giao dich/công ty đứng ra ký kết hợp đồng.

Như vậy các doanh nghiêp cần tra cứu thông tin rất kỹ trước khi tiến hành soạn thảo, ký kết hợp đồng.

Rủi ro gian lận là rủi ro mà nhà Factor phải đối mặt khi hóa đơn được bao thanh toán không liên quan đến bất kỳ giao dịch thương mại thực tế nào Điều này dẫn đến việc hóa đơn không có giá trị pháp lý, khiến nhà Factor không thể thu hồi nợ từ người mua, gây ra rủi ro cho chính họ Một ví dụ cụ thể sẽ làm rõ hơn về rủi ro gian lận này.

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP X

- Bị đơn: Công ty TNHH A.

- Ngày 07/09/2014 Ngân hàng thương mại cổ phần X tiến hành khởi kiện Công ty TNHH A với lý do: Lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của ngân hàng.

Vào ngày 01/06/2014, Công ty TNHH A đã mang 4 hóa đơn bán hàng trị giá 200 triệu đồng đến Ngân hàng Thương mại X để thực hiện nghiệp vụ factoring trong thời hạn 4 tuần Ngân hàng X đã chấp thuận ứng trước 80% giá trị các hóa đơn mà Công ty A yêu cầu.

Ngân hàng X đã đến hạn thanh toán và yêu cầu bên mua thanh toán các hóa đơn, nhưng bên mua từ chối do cho rằng hóa đơn của công ty A là giả mạo, được lập ra để chiếm đoạt 160 triệu đồng của ngân hàng Sau đó, ngân hàng X đã cố gắng truy đòi công ty A nhưng không thành công.

Nhận định các rủi ro

Rủi ro tín dụng là một thách thức lớn đối với ngân hàng, khi mặc dù phải đầu tư nhiều chi phí và thời gian để thu hồi nợ, họ vẫn không thể đòi lại toàn bộ số tiền đã cho vay Kết quả là, ngân hàng chỉ có thể thu hồi được số tiền có giá trị khoảng 90 triệu đồng.

Ngân hàng thương mại X đã đối mặt với rủi ro gian lận khi ứng trước 160 triệu cho công ty A mà không có hóa đơn hợp lệ từ các giao dịch thực tế Các hóa đơn được sử dụng trong nghiệp vụ Factoring là hóa đơn khống, không có giá trị pháp lý, dẫn đến việc ngân hàng không thể thu hồi tiền từ bên mua Điều này cho thấy người bán đã cố tình lừa đảo ngân hàng, gây ra rủi ro nghiêm trọng cho tổ chức tài chính này.

Rủi ro tác nghiệp trong ngân hàng xuất phát từ quy trình thực hiện nghiệp vụ và kiểm soát nội bộ chưa chặt chẽ, tạo điều kiện cho hành vi lừa đảo Công tác thẩm định và tiếp cận của ngân hàng còn yếu kém, dẫn đến việc không phát hiện được tính không chân thực của hóa đơn, phản ánh trình độ hạn chế của cán bộ nghiệp vụ Factoring.

Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ Factoring, ngân hàng gặp rủi ro do trình độ yếu kém của đội ngũ nhân viên và hành vi lừa đảo từ phía người bán Do đó, ngân hàng cần nâng cao năng lực nhân sự và thiết lập các biện pháp kiểm soát chặt chẽ để giảm thiểu rủi ro.

• Nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn của đội ngũ nhân viên.

Cần hoàn thiện quy trình thực hiện nghiệp vụ và quy trình kiểm soát nội bộ của ngân hàng một cách chặt chẽ hơn, đồng thời nâng cao chất lượng trong khâu thẩm định thông tin khách hàng.

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG FACTORING CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

2.3.1.1 Khung pháp lý còn nhiều bất cập

Môi trường pháp lý cho hoạt động Factoring tại Việt Nam hiện còn thiếu sót và chưa đồng bộ, với các quy định pháp lý mang tính chất chung chung, không cụ thể và rõ ràng Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán đã được sửa đổi qua quyết định 30/2008/QĐ-NHNN, nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế khi áp dụng vào thực tế tại các ngân hàng thương mại, đồng thời có nhiều khác biệt so với thông lệ quốc tế về Factoring.

Ví dụ theo khái niệm về Factoring theo điều 2 Quyết định này được định nghĩa là

Bảo lãnh thương mại (BTT) là hình thức cấp tín dụng từ tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu từ hợp đồng mua, bán hàng hóa Tuy nhiên, định nghĩa này chỉ dừng lại ở việc tài trợ vốn lưu động mà chưa phản ánh đầy đủ bản chất của BTT như một dịch vụ tài chính tổng hợp, bao gồm thanh toán, tín dụng, quản lý nợ và bảo hiểm Theo Điều 25, khoản 2, mục c, bên mua hàng không được yêu cầu hoàn trả số tiền đã thanh toán cho đơn vị bảo lãnh trong trường hợp bên bán hàng vi phạm hợp đồng, trừ khi đơn vị bảo lãnh đã thanh toán sau khi nhận thông báo vi phạm Điều này không chỉ trái với quy định của FCI mà còn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho bên mua.

Sự không đồng nhất trong quy định về nghiệp vụ Factoring tạo ra nhiều rào cản và rủi ro cho ngân hàng và doanh nghiệp Mỗi quốc gia có những quy định và tập quán riêng, khiến việc nắm bắt luật lệ quốc tế trở nên khó khăn Thiếu hiểu biết về các quy định này có thể dẫn đến tranh chấp và kiện tụng trong thương mại quốc tế.

2.3.1.2 Cơ sở dữ liệu thông tin về khách hàng còn hạn chế, môi trường thông tin chưa được công khai, minh bạch

Một trong những quy tắc quan trọng của các tổ chức kinh tế tại Việt Nam là thông tin không được công khai, dẫn đến việc hầu hết các doanh nghiệp không minh bạch trong hoạt động của mình Ngoại trừ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngân hàng, tổ chức tín dụng, quỹ hỗ trợ phát triển, doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức tài chính, cùng với công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, không có yêu cầu kiểm toán bắt buộc cho các doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH Điều này khiến cho các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về báo cáo tài chính của mình, dẫn đến việc thông tin tài chính không đầy đủ, gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc đánh giá khách hàng.

Hiện nay, tại Việt Nam chỉ có hai trung tâm cung cấp thông tin tín dụng cho các ngân hàng thương mại là CIC và PCB CIC, được quản lý bởi Ngân hàng Nhà nước, đã hoạt động từ năm 1999 với chức năng thu thập, lưu trữ và phân tích thông tin tín dụng phục vụ quản lý nhà nước và các dịch vụ ngân hàng Kho dữ liệu của CIC hiện đã bao gồm thông tin từ 100% các tổ chức tín dụng theo quy định, nhưng vẫn gặp nhiều hạn chế như chậm trễ trong cập nhật số liệu và thiếu đa dạng sản phẩm thông tin Điều này gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc cung cấp dịch vụ Factoring cho những doanh nghiệp mới chưa có quan hệ tín dụng.

Trung tâm thông tin tín dụng tu nhân PCB, hoạt động từ tháng 7/2010, được thành lập với sự góp vốn của 11 ngân hàng lớn như ACB, ABBank, Vietinbank, BIDV, Đông Á, Techcombank, Vietcombank, Sacombank, SCB, VIB và VP Bank CRIF, một công ty thông tin tín dụng của Italia, đã trở thành cổ đông lớn nhất với 20% vốn sở hữu PCB cung cấp thông tin chi tiết về tình hình vay nợ, tài sản thế chấp và lịch sử quan hệ tín dụng cho cá nhân cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Mặc dù có sự hỗ trợ từ các tổ chức cung cấp thông tin, mức độ an toàn tín dụng vẫn chưa được phản ánh chính xác Việc thu thập thông tin và chứng minh tình trạng tài chính của khách hàng qua báo cáo tài chính chưa đủ tin cậy, gây rủi ro cho ngân hàng Hơn nữa, các ngân hàng chưa xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu riêng để phục vụ cho hoạt động Factoring, và thiếu sự liên kết trong việc kiểm định, hỗ trợ thông tin và thẩm định khách hàng, dẫn đến nguy cơ rủi ro cao.

2.3.1.3 Môi trường kinh doanh bất ổn

Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua sự tăng trưởng liên tục trong những năm qua, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro Tình trạng lạm phát diễn ra không ổn định hàng năm, tạo ra nhiều bất ổn cho nền kinh tế.

Chính sách thương mại của Việt Nam liên quan đến xuất nhập khẩu, thuế quan và hải quan chưa ổn định, cùng với sự biến động mạnh của tỷ giá đã tạo ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, gia tăng rủi ro hối đoái Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ chưa phát triển đầy đủ, làm cho việc tính toán hiệu quả và quản lý rủi ro biến động tỷ giá trở nên phức tạp hơn Đặc biệt, sự biến động bất thường của giá USD đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của các doanh nghiệp này Từ đầu năm 2015 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hai lần điều chỉnh tỷ giá, với lần đầu tiên vào ngày 07/01/2015, nâng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND và USD từ 21.246 VND/USD lên 21.458 VND/USD Tỷ giá trần được ấn định ở mức 21.673 VND/USD và tỷ giá sàn là 21.243 VND/USD Lần điều chỉnh tiếp theo diễn ra vào ngày 07/05/2015, đưa tỷ giá lên 21.673 VND/USD.

Mức độ hội nhập toàn cầu ngày càng gia tăng, tạo ra một môi trường kinh doanh phức tạp với hệ thống pháp lý có nhiều thay đổi Tốc độ và khối lượng thanh toán cũng tăng cao, trong khi các hành vi trái phép từ bên ngoài ngày càng khó nhận biết và phòng ngừa.

2.3.1.4 Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước

Mặc dù hoạt động thanh tra đã góp phần củng cố hệ thống ngân hàng, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như năng lực cán bộ thanh tra chưa đáp ứng yêu cầu, một số nghiệp vụ và công nghệ mới chưa được kiểm tra kịp thời, nội dung và phương pháp thanh tra lạc hậu, vai trò của kiểm toán chưa được phát huy, và hệ thống thông tin chưa hiệu quả Những yếu điểm này đã dẫn đến việc nhiều vi phạm của ngân hàng thương mại trong hoạt động Factoring không được phát hiện và ngăn chặn, gây ra rủi ro và hậu quả nghiêm trọng cho các ngân hàng.

2.3.1.5 Nguyên nhân từ phía đối tác

Hoạt động của ngân hàng đại lý trong lĩnh vực Factoring quốc tế đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ Factoring và mức độ rủi ro mà các nhà Factor phải đối mặt.

Việc các đại lý Factor bên mua không đánh giá và kiểm soát chính xác người mua có thể gây ra rủi ro tín dụng cho đại lý bên bán trong quá trình Factoring ứng trước Nếu đại lý thiếu khả năng thu nợ, việc thu hồi nợ từ nhà nhập khẩu sẽ trở nên khó khăn, dẫn đến rủi ro cho các đại lý Factor bên mua cùng với chi phí và thời gian không cần thiết trong quá trình thu hồi nợ.

Factoring đã được triển khai tại Việt Nam từ năm 2004, nhưng vẫn còn là một dịch vụ mới mẻ với nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ về nó Chỉ một số ít doanh nghiệp biết đến nghiệp vụ này, và nếu có thì kiến thức về các tiện ích, điều kiện và rủi ro liên quan vẫn còn hạn chế.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong nghiệp vụ Factoring do thiếu kiến thức chuyên môn, dẫn đến nguy cơ rủi ro cao Việc không đáp ứng chứng từ thanh toán đúng yêu cầu dễ gây tranh chấp Hạn chế trong hiểu biết về ngoại thương và các điều luật quốc tế khiến doanh nghiệp dễ mắc sai sót khi ký kết hợp đồng, không phòng ngừa rủi ro và phải chịu hậu quả Thêm vào đó, uy tín khách hàng thấp và tình trạng gian lận trong giao dịch, cùng với các yếu tố bên ngoài như biến động tỷ giá và giá hàng hóa tăng cao, làm gia tăng rủi ro cho cả bên mua và bên bán, gây khó khăn cho ngân hàng.

2.3.2.1 Quy trình nghiệp vụ chưa rõ ràng

GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG

Ngày đăng: 31/03/2022, 11:19

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. GS.TS. Nguyễn Văn Tiến - TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, “Giáo trình Thanh toán quốc tế& Tài trợ ngoại thương” - NXB Thống Kê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Thanhtoán quốc tế& Tài trợ ngoại thương
Nhà XB: NXB Thống Kê
2. Chủ biên: TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, “Tài liệu học tập Tài trợ thương mại quốc tế” - Bộ môn Thanh toán quốc tế, Khoa ngân hàng, Học Viện Ngân Hàng 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu học tập Tài trợ thương mạiquốc tế
3. TS. Đặng thị Nhàn, “Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán trong tài trợ thương mại quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Đề tài NCKH cấp bộ, 2007.II. Các văn bản pháp lý, báo, tạp chí Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển nghiệp vụ bao thanh toán trong tài trợ thươngmại quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
4. TS. Nguyễn Thị Cẩm Thủy: ii Phat triển nghiệp vụ Factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” Số 83, tháng 4/2009, tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng Sách, tạp chí
Tiêu đề: ii"Phat triển nghiệp vụ Factoring tại các ngân hàngthương mại Việt Nam”
5. TS. Nguyễn Thị Cẩm Thủy: “Nhận diện rủi ro trong nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong hội nhập quốc tế” Số 126, tháng 11/2012, tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Nhận diện rủi ro trong nghiệp vụ ngân hàng quốctế của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong hội nhập quốc tế”
6. ThS. Châu Đinh Linh (Giảng viên trường Đại học Ngân hàng TP.HCM): “Bao thanh toán.cho đến bao giờ”. Theo InforNet.III. Tài liệu tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Baothanh toán.cho đến bao giờ”
1. Ngân hàng Nhà nước (2004), Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế hoạt động Bao thanh toán của các tổ chức tín dụng Khác
2. Ngân hàng Nhà nước (2005) Văn bản hướng dẫn số 676/NHNN - CSTT về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng Khác
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2008), Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN để sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng Khác
1. Factor Chain International, 2013, General Rules for International Factoring Khác
2. International Factor Group, 2013, General Rules for International Factoring Khác
5. UNDROIT, 1988, UNIDROIT Convention on International Factoring.IV. Các website Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1.1. Khác nhau giữa Factoring nội địa và Factoring quốc tế - Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động FACTORING của các ngân hàng thương mại việt nam,khoá luận tốt nghiệp
Bảng 1.1. Khác nhau giữa Factoring nội địa và Factoring quốc tế (Trang 17)
> Tình hình hoạt động Factoring trên thế giới - Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động FACTORING của các ngân hàng thương mại việt nam,khoá luận tốt nghiệp
gt ; Tình hình hoạt động Factoring trên thế giới (Trang 40)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w