ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong bài viết này là những người chăm sóc chính cho bệnh nhân tai biến mạch máu não, bao gồm các thành viên gia đình như vợ, chồng, con cái hoặc anh chị em ruột Những người này có trách nhiệm chăm sóc trực tiếp cho bệnh nhân trong suốt thời gian điều trị tại bệnh viện và sau khi xuất viện về nhà Họ thường là những người dành ít nhất 8 tiếng mỗi ngày để hỗ trợ bệnh nhân trong các hoạt động sinh hoạt cá nhân.
- Người chăm sóc chính người bệnh tai biến mạch máu não đang điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định trong thời gian từ tháng 5/2016 đến tháng 7/2016
- Người từ 18 tuổi trở lên
- Người không có rối loạn nhận thức
- Người có khả năng nghe, nói, đọc, viết bằng tiếng Việt
- Những người đồng ý tham gia nghiên cứu
- Những người bị rối loạn nhận thức
- Những người không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 4/2016 đến tháng 10/ 2016 Địa điểm: Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định
2.3 Xây dựng bộ công cụ
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng phiếu điều tra được thiết kế dựa trên “Bộ công cụ nâng cao chất lượng chăm sóc” từ tài liệu hướng dẫn chăm sóc và phòng ngừa loét ép của Dan Berlowitz và Carol VanDeusen Lukas năm 2010 tại Hoa Kỳ Tài liệu này cung cấp thông tin cơ bản về tình trạng loét ép, bao gồm tỷ lệ mắc, tỷ lệ tử vong, chi phí điều trị và kế hoạch chăm sóc của điều dưỡng, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá thực trạng để nâng cao nhận thức Bộ công cụ bao gồm các câu hỏi về loét ép và biện pháp phòng ngừa, nhằm đánh giá hiểu biết của người bệnh và người chăm sóc Các câu hỏi được xây dựng dựa trên kiến thức cơ bản về loét ép, thiết kế phù hợp cho từng đối tượng Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ sử dụng bộ câu hỏi dành cho người bệnh và người chăm sóc, tập trung vào việc đánh giá kiến thức lý thuyết và đã chỉnh sửa, sắp xếp bộ câu hỏi thành phiếu điều tra phù hợp.
Phiếu điều tra gồm 29 câu hỏi, trong đó có 6 câu hỏi về thông tin cá nhân và 23 câu hỏi liên quan đến kiến thức về loét ép và biện pháp dự phòng Phần câu hỏi kiến thức được thiết kế theo dạng đúng sai, mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, còn câu trả lời sai không được tính điểm Phiếu điều tra được chia thành ba phần rõ ràng.
- Phần 1: Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bài khảo sát bao gồm sáu câu hỏi nhằm thu thập thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu, bao gồm họ tên, tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp và nơi ở Những thông tin này sẽ giúp phân loại đối tượng theo độ tuổi, giới tính và nghề nghiệp, đồng thời xác định mối tương quan giữa các yếu tố nhân khẩu học và sự thay đổi trong kiến thức.
- Phần 2: Kiến thức chung về loét ép
Gồm 8 câu hỏi được chia thành các phần riêng biệt: Đại cương loét ép, gồm 2 câu hỏi về định nghĩa và phân loại loét ép
Các yếu tố nguy cơ loét ép có thể được xác định thông qua ba câu hỏi đúng sai Đối tượng có kiến thức tốt sẽ trả lời đúng cả ba câu, trong khi đối tượng có kiến thức trung bình sẽ chỉ trả lời đúng một phần Việc đánh giá này giúp hiểu rõ hơn về mức độ nhận thức và khả năng phòng ngừa loét ép của từng cá nhân.
2 câu, kiến thức kém khi tra lời đúng 1 câu hoặc không đúng câu nào
Nguyên nhân, dấu hiệu và vị trí loét ép: mỗi nội dung gồm 1 câu hỏi dạng đúng sai
Phần này đánh giá kiến thức của đối tượng nghiên cứu về loét ép, cho phép họ xác định thông tin đúng hay sai Chúng tôi sẽ tổng hợp và phân tích kết quả để đánh giá thực trạng kiến thức của đối tượng, từ đó đưa ra can thiệp phù hợp.
- Phần 3: Kiến thức dự phòng loét ép
Phần này có 15 câu hỏi liên quan đến các biện pháp chăm sóc và dự phòng loét ép cho người bệnh TBMMN, được chia thành các nội dung:
Dự phòng loét ép là vấn đề quan trọng, được đánh giá qua 4 câu hỏi Kiến thức về dự phòng loét ép được phân loại thành ba mức: tốt (trả lời đúng cả 4 câu), trung bình (trả lời đúng 2-3 câu) và kém (trả lời đúng 1 câu hoặc không đúng câu nào) Việc hiểu rõ tầm quan trọng của dự phòng loét ép giúp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe Đánh giá kiến thức này là cần thiết để cải thiện hiệu quả phòng ngừa loét ép.
Người chăm sóc đóng vai trò quan trọng trong việc dự phòng loét ép, vì vậy, một câu hỏi cần thiết để đánh giá kiến thức của họ về vai trò này là: "Bạn hiểu như thế nào về trách nhiệm của mình trong việc ngăn ngừa loét ép cho bệnh nhân?"
Thời gian thay đổi tư thế cho người bệnh rất quan trọng, bao gồm hai câu hỏi nhằm đánh giá kiến thức của người chăm sóc về thời gian cần thiết để xoay trở cho bệnh nhân Việc hiểu rõ thời gian này không chỉ giúp cải thiện sự thoải mái cho người bệnh mà còn giảm nguy cơ biến chứng do nằm lâu.
Dinh dưỡng của người bệnh: gồm hai câu hỏi giúp đánh giá kiến thức của đối tượng về yếu tố dinh dưỡng trong việc phòng tránh loét ép
Vệ sinh và vận động được đánh giá qua ba câu hỏi, phân loại theo mức độ kiến thức: tốt (đáp ứng đúng cả ba câu), trung bình (đúng hai câu) và kém (đúng một câu hoặc không đúng câu nào) Đối tượng nghiên cứu sẽ đưa ra ý kiến về các nội dung trong câu hỏi, từ đó xác định thực trạng kiến thức về phòng ngừa loét ép Qua đó, nghiên cứu giúp nâng cao nhận thức và cải thiện kỹ năng chăm sóc sức khỏe.
Sau khi đánh giá thực trạng kiến thức của từng nội dung cụ thể, chúng tôi đã tính toán điểm trung bình chung kiến thức của tất cả đối tượng Đánh giá lần 2 được thực hiện bằng bộ công cụ tương tự như lần 1 để xác định sự thay đổi trong kiến thức của những người chăm sóc chính.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp giáo dục có so sánh trước sau
So sánh Quy trình can thiệp:
Tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định, thời gian nằm viện trung bình của bệnh nhân tai biến mạch máu não là 2 tuần Chúng tôi đã tiến hành thu thập số liệu và can thiệp giáo dục cho những người chăm sóc chính của bệnh nhân ngay tại phòng bệnh Mỗi phòng bệnh tại đây thường có từ
Số lượng người bệnh tham gia can thiệp thường từ 8 đến 10 người, tuy nhiên, không phải tất cả người chăm sóc đều đủ tiêu chuẩn lựa chọn Thời gian nhập viện và ra viện của người bệnh cũng khác nhau, dẫn đến việc chỉ có từ 1 đến 3 đối tượng được can thiệp trong một lần Do đó, chúng tôi thực hiện can thiệp giáo dục và tư vấn trực tiếp cho từng đối tượng, đồng thời phát tờ rơi cung cấp thông tin cần thiết về tai biến mạch máu não và biện pháp dự phòng loét ép.
Đánh giá lần đầu được thực hiện ngay sau khi bệnh nhân nhập viện, nhằm khảo sát thực trạng kiến thức của nhóm nghiên cứu Quá trình này được tiến hành thông qua việc phát phiếu điều tra đã chuẩn bị sẵn, cho phép đối tượng tự điền thông tin.
Sau khi đánh giá kiến thức của đối tượng, chúng tôi phân tích các thiếu sót và hạn chế liên quan đến loét ép và biện pháp dự phòng Từ đó, chúng tôi xây dựng quy trình can thiệp phù hợp Do số lượng đối tượng nghiên cứu trong mỗi lần can thiệp chỉ từ 1 đến 3 người, chúng tôi đã thiết kế một chương trình can thiệp chung về kiến thức cơ bản, đồng thời triển khai các can thiệp riêng biệt cho từng đối tượng để phù hợp với tình hình thực tế của họ.
Tiến hành can thiệp giáo dục sức khỏe cho đối tượng nghiên cứu ngay sau khi có kết quả đánh giá lần 1, nhằm xây dựng nội dung phù hợp với từng nhóm đối tượng Điều này giúp xác định và khắc phục những thiếu sót trong kiến thức của họ.
Lựa chọn đối tượng nghiên cứu Đánh giá kiến thức dự phòng loét ép lần 1
Sai số và cách khắc phục
Nghiên cứu đã áp dụng phương pháp can thiệp giáo dục có so sánh trước sau trên 62 đối tượng là người chăm sóc chính của bệnh nhân tai biến mạch máu não từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2016, và đã thu được những kết quả đáng chú ý.
3.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
3.1.1 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi
Biểu đồ 3.1 : Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi
Biểu đồ 3.1 cho thấy rằng đối tượng nghiên cứu chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 31 đến 60, chiếm hơn 65% tổng số Đối tượng trên 60 tuổi chiếm 27,4%, trong khi nhóm tuổi từ 18 đến 30 chỉ chiếm 6,5%, cho thấy sự tập trung chủ yếu ở lứa tuổi trung niên.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
3.1.1 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi
Biểu đồ 3.1 : Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi
Biểu đồ 3.1 cho thấy đối tượng nghiên cứu chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 31 đến 60, chiếm hơn 65% Đối tượng trên 60 tuổi chiếm 27,4%, trong khi đó, nhóm tuổi từ 18 đến 30 chỉ chiếm 6,5%, cho thấy sự tập trung lớn ở lứa tuổi trung niên.
3.1.2 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới
Bảng 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới
Giới tính Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Bảng 3.1 cho thấy đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nữ giới chiếm tỷ lệ 74,2% cao gần gấp 3 lần nam giới chỉ chiếm 25,8%
3.1.3 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nơi ở
Bảng 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nơi ở
Nơi ở Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Tổng số 62 100 Đối tượng nghiên cứu chủ yếu đến từ vùng nông thôn chiếm 74,2%, khu vực thành thị chiếm 25,8%
3.1.4 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ học vấn
Biểu đồ 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ học vấn
Biểu đồ 3.2 chỉ ra rằng đối tượng nghiên cứu chủ yếu có trình độ học vấn trung học cơ sở, tiếp theo là trung học phổ thông, trong khi tỷ lệ người có trình độ tiểu học chỉ đạt 9.7%, cho thấy sự phân bố không đồng đều trong trình độ học vấn của nhóm nghiên cứu.
3.1.5 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp
Bảng 3.3: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Người chăm sóc chính của người bệnh chủ yếu là nông dân và hưu trí chiếm hơn 77%, thấp nhất là nhóm viên chức chỉ chiếm 9,8%.
Kiến thức chung về loét ép của đối tượng nghiên cứu
3.2.1 Kiến thức đại cương loét ép của ĐTNC
Bảng 3.4: Kiến thức về đại cương loét ép của ĐTNC
Trước can thiệp Sau can thiệp n(đúng) % n(sai) % n(đúng) % n(sai) % Định nghĩa 15 24.2 47 75.8 49 79.1 13 20.9
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự cải thiện rõ rệt về kiến thức đại cương về loét ép sau can thiệp Cụ thể, tỷ lệ người trả lời đúng định nghĩa loét ép tăng từ 24.2% lên 79.1%, và tỷ lệ phân loại đúng các mức độ loét ép cũng tăng từ 14.5% lên 85.5%.
3.2.2 Kiến thức về các yếu tố nguy cơ loét ép của ĐTNC
Biểu đồ 3.3: Kiến thức về các yếu tố nguy cơ loét ép của ĐTNC
Biểu đồ 3.3 cho thấy trước khi can thiệp giáo dục, kiến thức của đối tượng nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ loét ép chủ yếu ở mức kém và trung bình, với tỷ lệ lần lượt là 53.4% và 43.1% Sau can thiệp, kiến thức của họ đã được cải thiện rõ rệt, không còn ai có kiến thức kém, và tỷ lệ kiến thức tốt và trung bình đạt 45.2% và 54.8%.
3.2.3 Kiến thức về nguyên nhân, dấu hiệu, vị trí loét ép của ĐTNC
Bảng 3.5: Kiến thức về nguyên nhân loét ép của ĐTNC
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Trong một nghiên cứu với 62 người tham gia, chỉ có hơn 10% biết nguyên nhân gây loét ép Tuy nhiên, sau khi can thiệp, hơn 80% đối tượng đã nâng cao nhận thức về nguyên nhân gây loét ép ở bệnh nhân.
Bảng 3.6: Kiến thức về dấu hiệu loét ép của ĐTNC
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Trước khi can thiệp giáo dục, gần 70% đối tượng không nhận biết dấu hiệu của vết loét ép, nhưng sau can thiệp, tỷ lệ này đã giảm đáng kể, chỉ còn 14,5% đối tượng trả lời sai.
Bảng 3.7: Kiến thức về vị trí loét ép của ĐTNC
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Trước can thiệp, chỉ khoảng 25% đối tượng nghiên cứu trả lời đúng về vị trí dễ xảy ra loét ép, nhưng sau can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên gần 90%.
3.2.4 Kết quả chung kiến thức loét ép trước và sau can thiệp
Bảng 3.8: So sánh điểm trung bình kiến thức loét ép trước và sau can thiệp Điểm TBC kiến thức về loét ép
Trước can thiệp Sau can thiệp p 2,65 ± 1,202 6,68 ±0,954 p < 0,01
Kết quả từ bảng 3.8 cho thấy kiến thức chung về loét ép của đối tượng nghiên cứu đã được cải thiện đáng kể sau khi can thiệp giáo dục, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).
Kiến thức dự phòng loét ép
3.3.1 Kiến thức của ĐTNC về tầm quan trọng dự phòng loét ép
Bảng 3.9: Kiến thức của ĐTNC về tầm quan trọng dự phòng loét ép
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Trước khi can thiệp giáo dục, nhận thức của các đối tượng nghiên cứu về tầm quan trọng của dự phòng loét ép chủ yếu ở mức độ trung bình và kém Sau khi can thiệp, nhận thức của họ đã được cải thiện, đạt mức tốt và trung bình với tỷ lệ tương ứng là 41,9% và 58,1%.
3.3.2 Kiến thức của ĐTNC về vai trò của người CSC với dự phòng loét ép
Biểu đồ 3.4: Kiến thức của ĐTNC về vai trò của người CSC với dự phòng loét ép
Trước khi can thiệp, chỉ có 45,2% người chăm sóc chính nhận thức rõ vai trò của mình trong việc phòng ngừa loét ép cho bệnh nhân Tuy nhiên, sau can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên đáng kể, với 93,5% người chăm sóc hiểu đúng vai trò của họ trong việc dự phòng loét ép cho bệnh nhân tai biến.
3.3.3 Kiến thức của ĐTNC về thời gian thay đổi tư thế người bệnh
Bảng 3.10: Kiến thức của ĐTNC về thời gian xoay trở người bệnh
Trước can thiệp Sau can thiệp n(đúng) % n(sai) % n(đúng) % n(sai) % Người bệnh ngồi xe lăn
Sau khi can thiệp giáo dục, tỷ lệ trả lời đúng về thời gian thay đổi tư thế của người bệnh nằm giường đạt hơn 70%, trong khi đó, tỷ lệ này ở người bệnh ngồi xe lăn lên tới 85,5%.
3.3.4 Kiến thức của ĐTNC về dinh dưỡng với việc dự phòng loét ép
Bảng 3.11: Kiến thức của ĐTNC về dinh dưỡng với dự phòng loét ép
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Trước can thiệp có 24,2% người chăm sóc không biết được vai trò của dinh dưỡng trong việc phòng tránh loét ép, sau can thiệp 79% họ đã nhận thức đúng
3.3.5 Kiến thức của ĐTNC về vai trò của vệ sinh với việc dự phòng loét ép
Bảng 3.12: Kiến thức của ĐTNC về vệ sinh với dự phòng loét ép
Trước can thiệp Sau can thiệp n % n %
Trước khi can thiệp, chỉ có 1,8% người chăm sóc hiểu rõ vai trò của vệ sinh trong việc phòng ngừa loét ép Tuy nhiên, sau can thiệp, tỷ lệ người đạt kiến thức tốt đã tăng lên đáng kể, đạt 54,8%.
3.3.6.Kiến thức của ĐTNC về vai trò của vận động với việc dự phòng loét ép
Biểu đồ 3.5: Kiến thức của ĐTNC về vai trò của vận động với dự phòng loét ép
Trước can thiệp, 59,4% đối tượng có kiến thức kém về vai trò của vận động trong việc dự phòng loét ép; tuy nhiên, sau can thiệp, tỷ lệ này đã giảm mạnh xuống chỉ còn 8,1%.
3.3.7 Kết quả chung kiến thức dự phòng loét ép trước và sau can thiệp
Bảng 3.13: So sánh điểm trung bình kiến thức dự phòng loét ép trước và sau can thiệp Điểm TBC kiến thức dự phòng loét ép
Trước can thiệp Sau can thiệp p 6,67 ± 1,73 12,74 ± 1,5 p < 0.01
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức chung về dự phòng loét ép của đối tượng đã tăng đáng kể từ 6,67 ± 1,73 trước khi can thiệp giáo dục lên 12,74 ± 1,5 sau can thiệp, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p