ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
NB ung thư đang điều trị nội trú tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định
- NB ung thư đang điều trị nội trú tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2020
- NB từ 18 tuổi trở lên, có đủ sức khoẻ để trả lời các câu hỏi phỏng vấn
- NB tự nguyện tham gia nghiên cứu
- NB không có mặt tại thời điểm phỏng vấn.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Thời gian nghiên cứu từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 8 năm 2020
- Thời gian thu thập số liệu: Từ tháng 01 đến tháng 03 năm 2020
- Địa điểm: Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu Áp dụng công thức: n = z /
Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Liên tại Trung tâm Ung Bướu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình cho thấy tỷ lệ người bệnh có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) là p = 0,71 Với khoảng tin cậy 95%, giá trị z 2 (1-α/2) được xác định là 1.96, từ đó tính được q = 1 - p = 0.29 Sai lệch mong muốn d được chọn là 0.05 Sau khi áp dụng công thức SampleSize 2.0, cỡ mẫu nghiên cứu cần thiết là n = 317 người bệnh, cộng thêm 10% dự phòng, tổng số người bệnh cần khảo sát là 350 Phương pháp chọn mẫu sẽ được thực hiện theo kế hoạch đã đề ra.
Tất cả NB đáp ứng tiêu chuẩn chọn mẫu trong thời gian từ tháng 01 đến tháng
3 năm 2020 cho đến khi đủ mẫu nghiên cứu.
Phương pháp thu thập số liệu
Phương pháp thu thập số liệu:
Sau khi nhận được sự đồng ý từ Hội đồng đề cương Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định, Hội đồng y đức, Ban giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định, và lãnh đạo Trung tâm Ung bướu, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập số liệu với sự đồng ý tham gia của các bệnh nhân.
Phương pháp thu thập dữ liệu được thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp người bệnh (NB) dựa trên bộ câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn (xem phụ lục 2) Địa điểm thu thập là Trung tâm Ung bướu thuộc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định Đội ngũ thu thập số liệu bao gồm nghiên cứu viên và ba điều dưỡng viên của Trung tâm Ung bướu.
Tiến trình thu thập số liệu:
• Bước 1: Chọn NB tham gia phỏng vấn theo tiêu chuẩn chọn mẫu
Nghiên cứu viên sẽ trình bày mục đích, nội dung, phương pháp và thời gian dự kiến cho buổi phỏng vấn với người bệnh Nếu người bệnh đồng ý tham gia nghiên cứu, họ sẽ ký vào bản đồng thuận (phụ lục 1).
Bước 3: Nghiên cứu viên và điều tra viên thực hiện thu thập dữ liệu thông qua phương pháp phỏng vấn trực tiếp, mỗi cuộc phỏng vấn kéo dài khoảng 20 phút trên mỗi người tham gia, sử dụng bộ công cụ đã được chuẩn bị trước (xem phụ lục 2).
• Bước 4: Kiểm tra toàn bộ thông tin của phiếu phỏng vấn lần cuối và giải đáp câu hỏi của NB (nếu có).
Các biến số nghiên cứu
TT Biến số Định nghĩa biến
PP thu thập số liệu
1 Giới tính Là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ
Tuổi của NB tính theo năm dương lịch (hiệu số của năm 2020 trừ đi năm sinh)
3 Nơi cư trú Là nơi NB đang sinh sống Định danh
4 Trình độ học vấn Bằng cấp cao nhất của ĐTNC đạt được cho đến thời điểm phỏng vấn
5 Nghề nghiệp Công việc hàng ngày tạo ra thu nhập chính cho NB Định danh
6 Loại ung thư Là vị trí, cơ quan bị bệnh của ĐTNC Định danh
7 Giai đoạn bệnh Là tình trạng bệnh ở mức độ nào chia thành 4 giai đoạn
Là cách thức NB tự chi trả hay có bảo hiểm y tế
9 Nhu cầu về thông tin y tế
Là mong muốn của NB về những thông tin liên quan đến hoạt động khám và điều trị bệnh
10 Nhu cầu về thể chất, sinh hoạt
Là mong muốn của NB liên quan đến thể chất, sinh hoạt hàng ngày
TT Biến số Định nghĩa biến
PP thu thập số liệu
11 Nhu cầu về giao tiếp, quan hệ
Là những mong mong muốn của NB liên quan đến giao tiếp và mối quan hệ xã hội với mọi người
12 Nhu cầu hỗ trợ về tâm lý
Là những mong muốn của NB liên quan đến các vấn đề về tâm lý
Nhu cầu về dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ tài chính
Là những mong muốn của NB liên quan đến các dịch vụ chăm sóc, cơ sở điều trị và những vấn đề liên quan đến tài chính
14 Đáp ứng nhu cầu về thông tin y tế
Là đánh giá của NB về mức độ được đáp ứng những nhu cầu thông tin liên quan đến hoạt động khám và điều trị bệnh
15 Đáp ứng nhu cầu về thể chất, sinh hoạt hàng ngày
Là đánh giá của NB về mức độ được đáp ứng nhu cầu về thể chất và sinh hoạt hàng ngày
16 Đáp ứng nhu cầu về giao tiếp, quan hệ
Là đánh giá của NB về mức độ được đáp ứng nhu cầu về giao tiếp và mối quan hệ xã hội với mọi người
17 Đáp ứng nhu cầu về tâm lý
Là đánh giá của NB về mức độ được đáp ứng nhu cầu liên quan đến các vấn đề về tâm lý
18 Đáp ứng nhu cầu về dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ tài chính
Đánh giá của NB về mức độ đáp ứng nhu cầu liên quan đến dịch vụ chăm sóc, cơ sở điều trị và các vấn đề tài chính là rất quan trọng Điều này giúp xác định hiệu quả của các dịch vụ y tế và khả năng hỗ trợ tài chính cho người bệnh Việc cải thiện chất lượng dịch vụ chăm sóc và cơ sở điều trị sẽ góp phần nâng cao sự hài lòng của người bệnh và đảm bảo họ nhận được sự hỗ trợ cần thiết.
Khái niệm, thước đo, tiêu chuẩn đánh giá
Bộ công cụ thu thập số liệu được phát triển dựa trên Quyết định số 3483/BYT ngày 15/09/2006 của Bộ Y tế về “Hướng dẫn chăm sóc giảm nhẹ đối với người bệnh ung thư và AIDS” Nghiên cứu năm 2019 của tác giả Trần Thị Liên tại trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình đã chỉ ra nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư điều trị nội trú Bộ công cụ đã được điều chỉnh để đảm bảo các câu hỏi rõ ràng và phù hợp với đối tượng cũng như địa bàn nghiên cứu.
- Bộ công cụ thu thập số liệu gồm 3 phần (Phụ lục 2)
Phần A: Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu (10 câu) từ A1 đến A.10
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người bệnh ung thư bao gồm năm yếu tố chính: hỗ trợ thông tin y tế, hỗ trợ về thể chất và sinh hoạt, hỗ trợ giao tiếp và quan hệ, hỗ trợ tâm lý, cùng với dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ tài chính Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo điều kiện cho người bệnh vượt qua giai đoạn khó khăn.
Phần C của bài viết phân tích thực trạng đáp ứng nhu cầu của người bệnh ung thư (NB ung thư) qua 5 yếu tố chính Đầu tiên, nhu cầu về thông tin y tế chưa được đáp ứng đầy đủ, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận kiến thức cần thiết Thứ hai, nhu cầu về thể chất và sinh hoạt cũng gặp nhiều khó khăn, dẫn đến sự hạn chế trong hoạt động hàng ngày Thứ ba, nhu cầu giao tiếp và quan hệ xã hội của người bệnh chưa được chú trọng, gây cảm giác cô đơn Thứ tư, nhu cầu tâm lý cần được quan tâm hơn để hỗ trợ tinh thần cho người bệnh Cuối cùng, dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ tài chính vẫn còn thiếu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư.
- NB đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ ký vào bản đồng thuận tham gia nghiên cứu (Phụ lục 1)
Người bệnh sẽ tự đánh giá nhu cầu của mình và thực trạng đáp ứng nhu cầu đó trước khi trả lời điều tra viên với hai lựa chọn "Có" hoặc "Không" Sau khi nghe ý kiến của người bệnh, điều tra viên sẽ ghi lại câu trả lời vào phiếu.
2.7.2 Tiêu chu ẩ n đ ánh giá và thang đ o
Chỉ số đánh giá Số lượng tiểu mục
Nhu cầu hỗ trợ về thông tin y tế 9
Nhu cầu hỗ trợ về thể chất, sinh hoạt 6
Nhu cầu hỗ trợ về giao tiếp, quan hệ 5
Nhu cầu hỗ trợ về tâm lý 9
Nhu cầu hỗ trợ về dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ tài chính 3
Thực trạng đáp ứng nhu cầu về thông tin y tế 9
Thực trạng đáp ứng nhu cầu về thể chất, sinh hoạt 6
Thực trạng đáp ứng nhu cầu về giao tiếp, quan hệ 5
Thực trạng đáp ứng nhu cầu về tâm lý 9
Thực trạng đáp ứng nhu cầu dịch vụ chăm sóc, tài chính 3
Cách tính tỷ lệ nhu cầu CSGN được thực hiện qua thang đánh giá phân thành 2 mức độ Mỗi câu hỏi có 2 phương án trả lời là “Có” hoặc “Không”, dựa trên việc người bệnh (NB) có nhu cầu hay không và nhu cầu đó có được đáp ứng hay không.
Cách tính t ỷ l ệ nhu c ầ u CSGN và th ự c tr ạ ng đ áp ứ ng nhu c ầ u CSGN theo t ừ ng y ế u t ố :
Để xác định tỷ lệ nhu cầu theo từng yếu tố, một nhu cầu được coi là “Có” khi tỷ lệ số tiểu mục trả lời “có” vượt quá 50% tổng số tiểu mục của yếu tố đó Ngược lại, nhu cầu được xác định là “Không có” khi tỷ lệ số tiểu mục trả lời “có” dưới hoặc bằng 50% tổng số tiểu mục của yếu tố đó.
Tính tỷ lệ thực trạng đáp ứng nhu cầu theo từng yếu tố: NB được xác định
Một yếu tố được coi là "được đáp ứng" khi số tiểu mục trả lời "có" chiếm hơn 50% tổng số tiểu mục của yếu tố đó Ngược lại, yếu tố sẽ được xác định là "không được đáp ứng" khi số tiểu mục trả lời "có" chiếm 50% hoặc ít hơn tổng số tiểu mục của yếu tố.
Cách tính t ổ ng t ỷ l ệ nhu c ầ u CSGN và th ự c tr ạ ng đ áp ứ ng nhu c ầ u CSGN:
Tỷ lệ nhu cầu CSGN được xác định dựa trên số lượng tiểu mục trả lời "có" trong tổng số 32 tiểu mục Nếu số tiểu mục trả lời "có" vượt quá 50%, nhu cầu CSGN được coi là "cao" Ngược lại, nếu số tiểu mục trả lời "có" bằng hoặc dưới 50%, nhu cầu CSGN được xác định là "thấp".
Tỷ lệ thực trạng đáp ứng nhu cầu CSGN được xác định dựa trên việc đánh giá số tiểu mục trả lời “có” trong tổng số 32 tiểu mục Nếu số tiểu mục trả lời “có” vượt quá 50%, NB được coi là “Được đáp ứng” với CSGN Ngược lại, nếu số tiểu mục trả lời “có” bằng hoặc dưới 50%, NB sẽ được xác định là “Không được đáp ứng” với CSGN.
Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu sau khi được làm sạch, nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0 với các kiểm định thống kê y học
Để phân tích mối liên quan giữa các biến, trước tiên cần lập bảng phân bố số lượng và tỷ lệ phần trăm của các biến Nghiên cứu sẽ mã hóa thang điểm thành hai nhóm: nhóm không có nhu cầu và nhóm có nhu cầu cho từng tiểu mục Sau đó, tính tổng điểm nhu cầu và phân chia thành hai mức độ: có nhu cầu cao và có nhu cầu thấp Cuối cùng, dựa trên các mức độ này, tính tỷ lệ nhu cầu để thực hiện phân tích mối liên quan.
+ Mã hóa đối tượng nghiên cứu theo các nhóm chia theo đặc trưng của đối tượng Ví dụ: Tuổi được chia làm 2 nhóm là ≤ 60 tuổi và > 60 tuổi
Chúng tôi đã áp dụng kiểm định Chi-squared để phân tích mối liên hệ giữa các biến độc lập như giới tính, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp và giai đoạn bệnh với biến phụ thuộc, bao gồm nhu cầu thông tin y tế, nhu cầu thể chất và sinh hoạt, nhu cầu giao tiếp, nhu cầu tâm lý, nhu cầu về dịch vụ chăm sóc và nhu cầu CSGN, với mức ý nghĩa p0,05)
3.3.4 M ố i liên quan gi ữ a nhu c ầ u h ỗ tr ợ tâm lý v ớ i đặ c đ i ể m chung c ủ a đố i t ượ ng nghiên c ứ u
B ả ng 3.12 M ố i liên quan gi ữ a nhu c ầ u tâm lý v ớ i đặ c đ i ể m chung c ủ a đố i t ượ ng nghiên c ứ u (n50) Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Có nhu cầu Không có nhu cầu χ ², p
Trung cấp, cao đẳng trở lên 28 93,3 2 6,7
Cán bộ viên chức, hưu trí 85 81,0 20 19,0
Bảng 3.12 cho thấy: Giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với nhu cầu hỗ trợ về tâm lý (p0,05)
3.3.5 M ố i liên quan gi ữ a nhu c ầ u h ỗ tr ợ v ề d ị ch v ụ ch ă m sóc v ớ i đặ c đ i ể m chung c ủ a đố i t ượ ng nghiên c ứ u
B ả ng 3.13 M ố i liên quan gi ữ a nhu c ầ u h ỗ tr ợ v ề d ị ch v ụ ch ă m sóc v ớ i đặ c đ i ể m chung c ủ a đố i t ượ ng nghiên c ứ u (n50) Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu hỗ trợ về dịch vụ chăm sóc
Có nhu cầu Không có nhu cầu χ ², p
Trung cấp, cao đẳng trở lên 25 83,3 5 16,7
Cán bộ viên chức, hưu trí 81 77,1 24 22,9
Bảng 3.13 cho thấy: Tuổi, giai đoạn bệnh là yếu tố có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với nhu cầu hỗ trợ dịch vụ chăm sóc (p0,05)
3.3.6 M ố i liên quan gi ữ a nhu c ầ u ch ă m sóc gi ả m nh ẹ v ớ i đặ c đ i ể m chung c ủ a đố i t ượ ng nghiên c ứ u
B ả ng 3.14 M ố i liên quan gi ữ a nhu c ầ u ch ă m sóc gi ả m nh ẹ v ớ i đặ c đ i ể m chung c ủ a đố i t ượ ng nghiên c ứ u (n50) Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ
Có nhu cầu Không có nhu cầu χ ², p
Trung cấp, cao đẳng trở lên 28 93,3 2 6,7
Cán bộ viên chức, hưu trí 96 91,4 9 8,6
Bảng 3.14 cho thấy: Tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp và giai đoạn bệnh là yếu tố có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với nhu cầu CSGN (p0,05).
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi trung bình của đối tượng tham gia là 64,2 ± 11,8 tuổi, với độ tuổi nhỏ nhất là 24 và độ tuổi lớn nhất chưa được xác định.
Tỷ lệ mắc bệnh ở người từ 60 tuổi trở lên đạt 69,1%, trong khi nhóm tuổi dưới 60 tuổi chỉ chiếm 30,9% Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của tác giả Nông Văn Dương về tình trạng đau và chất lượng cuộc sống.
NB ung thư giai đoạn muộn được CSGN tại Trung tâm ung bướu Thái Nguyên năm
Theo nghiên cứu, tuổi trung bình của bệnh nhân ung thư là 63,2 ± 11,2, trong khi một nghiên cứu khác cho thấy tuổi trung bình là 62,1 ± 11,3, với sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm tuổi Cụ thể, tỷ lệ bệnh ung thư ở người trên 60 tuổi thấp hơn so với người dưới 60 tuổi, với tỷ lệ lần lượt là 37,7% và 62,3% Sự tiến bộ của y học và cải thiện điều kiện sống đã làm tăng tuổi thọ con người, tuy nhiên, bệnh ung thư thường gặp ở người cao tuổi, đặc biệt là trên 60 tuổi, do sức khỏe thể chất suy giảm theo độ tuổi Quá trình lão hóa nhanh chóng dẫn đến suy giảm miễn dịch, khiến người già dễ mắc các bệnh mạn tính và nguy hiểm hơn.
Theo nghiên cứu, tỷ lệ mắc bệnh ung thư ở nam giới đạt 68,9%, trong khi ở nữ giới chỉ là 31,1% Kết quả này tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài về tình trạng đau và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn tại Trung tâm ung bướu Thái Nguyên, với tỷ lệ nam giới là 69% và nữ giới là 31%.
Nghiên cứu của Lê Thị Tuyết Hạnh tại Thừa Thiên Huế cho thấy tỷ lệ nam giới mắc ung thư giai đoạn cuối là 68,2%, trong khi nữ giới chỉ chiếm 31,8% Tương tự, nghiên cứu của Đỗ Thị Thắm tại Bệnh viện K Trung ương chỉ ra rằng 60% bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng là nam giới, và 40% là nữ giới Ngoài ra, nghiên cứu của Trần Thị Liên cũng ghi nhận tỷ lệ nam giới mắc bệnh là 60,8% và nữ giới là 39,2% Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ung thư ở nam giới cao hơn so với nữ giới.
Sự khác biệt trong nguy cơ mắc bệnh giữa nam và nữ chủ yếu xuất phát từ các yếu tố như thói quen hút thuốc lá, uống rượu bia và môi trường làm việc, những yếu tố này có tác động lớn hơn đến khả năng gây bệnh ở nam giới.
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, với 74% dân số sống ở nông thôn và chỉ 26% tại thành phố Tỉnh Nam Định, nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, cũng có nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và ngư nghiệp Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ dân số nông thôn (ĐTNC) ở Nam Định chiếm 73%, trong khi tỷ lệ sống ở thành thị chỉ là 27%, phù hợp với đặc điểm địa phương.
4.1.4 Đặ c đ i ể m v ề trình độ h ọ c v ấ n Đa số ĐTNC có trình độ học vấn từ THCS trở xuống, chiếm 50,9% Trình độ THPT chiếm 40,6% Trình độ từ trung cấp, cao đẳng trở lên chiếm tỷ lệ 8,6% Có kết quả đó vì đa số ĐTNC của chúng tôi thuộc nhóm có độ tuổi trên 60 tuổi, sống ở khu vực nông thôn Đây là những người bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế của những năm 1960 trở về trước khi nền kinh tế còn chịu ảnh hưởng của chiến tranh nên không có điều kiện để nâng cao trình độ học vấn So sánh với nghiên cứu của tác giả Trần Thị Liên tại trung tâm Ung bướu tỉnh Thái Bình thì trình độ học vấn từ THPT trở xuống trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 91% cao hơn của tác giả Trần Thị Liên (82,9%) [16] Điều này có thể lý giải là do nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt về độ tuổi nghiên cứu Độ tuổi nghiên cứu của chúng tôi có tới 69,1% ĐTNC từ 60 tuổi trở lên trong khi nghiên cứu của tác giả Trần Thị Liên chủ yếu là người trẻ tuổi, độ tuổi trên 60 tuổi chỉ chiếm tỷ lệ 37,7% [16]
Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn ĐTNC làm nghề nông dân chiếm tỷ lệ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người lao động không chính thức (ĐTNC) là công nhân chiếm 14%, cán bộ viên chức chiếm 3,1%, và hưu trí chiếm 17,7% Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Trần Thị Liên, trong đó tỷ lệ ĐTNC là nông dân và công nhân là 78,2%, trong khi nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 70% Tuy nhiên, tỷ lệ ĐTNC là cán bộ viên chức trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn, do nhóm tuổi trên 60 chiếm 69,1% so với 37,7% trong nghiên cứu của Trần Thị Liên Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng ĐTNC thuộc nhóm lao động chân tay như nông dân và công nhân có tỷ lệ mắc bệnh ung thư cao hơn so với nhóm lao động trí óc Điều này phản ánh thực trạng nước ta, nơi mà lao động nông nghiệp và công nhân chiếm tỷ lệ lớn so với các ngành nghề khác.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân mắc ung thư phổi cao nhất, chiếm 29,7%, tiếp theo là ung thư dạ dày với 16,3%, ung thư gan 12,9%, ung thư đại trực tràng 10% và ung thư vú 7,1% Các loại ung thư khác chiếm 24%, cho thấy sự đa dạng về các loại bệnh ung thư hiện nay Sự thay đổi về môi trường, điều kiện sống và thói quen sinh hoạt đã dẫn đến sự gia tăng các loại bệnh ung thư Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Lương Văn Quý, trong đó ung thư phổi chiếm 26,5%, ung thư dạ dày 16,1% và ung thư đại trực tràng 14,2%.
Nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ ung thư phổi cao ở Việt Nam là do thói quen hút thuốc lá và thuốc lào, đặc biệt phổ biến ở nam giới Việt Nam nằm trong top 15 quốc gia có số người sử dụng thuốc lá cao nhất thế giới, với khoảng 16 triệu người Theo điều tra năm 2010, tỷ lệ hút thuốc lá ở nam giới từ 15 tuổi trở lên chỉ giảm 2% so với năm 2006, vẫn ở mức 47,4%, trong khi mục tiêu là 20% Đáng chú ý, trong số những người không hút thuốc, 55,9% người lao động tiếp xúc với khói thuốc tại nơi làm việc, và tỷ lệ tiếp xúc thường xuyên với khói thuốc trong gia đình lên tới 67,6%.
Trong nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhân ung thư đang điều trị ở giai đoạn III chiếm 52,6%, giai đoạn IV là 21,4%, trong khi giai đoạn II và I lần lượt là 16% và 10% Các nghiên cứu khác cũng ghi nhận kết quả tương tự, như nghiên cứu của Đỗ Thị Thắm cho thấy 59,1% bệnh nhân ung thư đại trực tràng ở giai đoạn III và 7,9% ở giai đoạn IV Nghiên cứu của Lương Văn Quý chỉ ra rằng 42,6% bệnh nhân ung thư đang điều trị ở giai đoạn III và 27,1% ở giai đoạn IV Bên cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn Thị Hoài cho thấy 64% bệnh nhân ung thư giai đoạn III và 25,3% ở giai đoạn IV.
Nghiên cứu cho thấy phần lớn người dân Việt Nam không có thói quen kiểm tra sức khỏe định kỳ, dẫn đến việc phát hiện bệnh ung thư thường diễn ra ở giai đoạn muộn Nguyên nhân là do chi phí khám và sàng lọc cao, cùng với sự tiến triển âm thầm của bệnh ung thư trong nhiều năm, khiến triệu chứng không rõ ràng.
4.1.8 Đặ c đ i ể m v ề hình th ứ c thanh toán vi ệ n phí
Bảo hiểm y tế đóng vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội, giúp người dân giảm gánh nặng chi phí khám chữa bệnh, đặc biệt trong các trường hợp bệnh nặng và mạn tính Chính sách này không chỉ chia sẻ rủi ro mà còn giảm bớt gánh nặng tài chính cho mỗi cá nhân Nhờ vào các chính sách hỗ trợ phù hợp, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế ngày càng tăng, đặc biệt là ở những bệnh nhân nặng và bệnh mạn tính như ung thư Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân thanh toán viện phí bằng bảo hiểm y tế rất cao, đạt 98,3%, trong khi chỉ 1,7% bệnh nhân tự chi trả.
Nhu cầu và thực trạng đáp ứng nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của ĐTNC
Bệnh nhân ung thư, bất kể loại bệnh hay giai đoạn nào, thường gặp phải các triệu chứng như đau, mất ngủ, sốt, nôn hoặc buồn nôn, và khó thở Bên cạnh đó, họ cũng trải qua những biến động tâm lý như sợ hãi về bệnh tật và các phương pháp điều trị, lo lắng cho tương lai của bản thân và gia đình, sợ chết, cũng như suy giảm khao khát sống.
Theo báo cáo của Health Bridge năm 2010, tác giả Trịnh Hữu Vách chỉ ra rằng 75,9% bệnh nhân ung thư thường trải qua cơn đau trong quá trình bệnh, đi kèm với các triệu chứng như mệt mỏi (78,8%), mất ngủ (55,1%), sốt (40,7%), và buồn nôn (38,5%) Tâm trạng của bệnh nhân cũng bị ảnh hưởng nặng nề, với 50,5% lo sợ bệnh tật và điều trị, 47,5% lo lắng cho tương lai, và 31,5% sợ chết Điều này cho thấy nhu cầu về chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) cho bệnh nhân ung thư là rất lớn, bao gồm các biện pháp chống đau, điều trị triệu chứng và hỗ trợ tâm lý Do đó, cần có sự quan tâm từ nhân viên y tế và các cơ sở y tế để đáp ứng nhu cầu này, nhằm kiểm soát đau và hỗ trợ tinh thần cho bệnh nhân.
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe người bệnh ung thư (CSGN) tại Việt Nam đang tăng cao, với nghiên cứu của Trần Thị Liên tại Trung tâm Ung bướu tỉnh Thái Bình cho thấy 76,3% người bệnh cần CSGN Tương tự, nghiên cứu của Trần Thị Hảo năm 2010 trên 10 tỉnh cho thấy 71,2% người dân cũng nhận thức được nhu cầu CSGN cho người bệnh ung thư.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhu cầu chăm sóc người bệnh (CSGN) của bệnh nhân ung thư tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định đạt tỷ lệ cao 81,1% Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Trần Thị Liên và Trần Thị Hảo, chủ yếu do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên Điều này cho thấy nhu cầu CSGN của bệnh nhân ung thư cũng như của người dân là rất lớn và đồng đều ở các vùng miền khác nhau, phản ánh sự quan tâm đáng kể đến sức khỏe cá nhân.
NB, gia đình NB cũng như của người dân ngày càng được nâng cao
Nghiên cứu của tác giả Trịnh Hữu Vách về thực trạng đáp ứng nhu cầu của
Theo một nghiên cứu về bệnh nhân ung thư năm 2010, có từ 24,2% đến 69,7% bệnh nhân gặp triệu chứng nhưng không được đáp ứng kịp thời Hơn một phần ba số người được khảo sát cho biết họ hiếm khi hoặc không bao giờ nhận được tư vấn Nội dung tư vấn chủ yếu xoay quanh các triệu chứng và phương pháp điều trị (48,1%) cùng với dinh dưỡng (46,2%).
Trong những năm gần đây, nhu cầu chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là nhu cầu của bệnh nhân ung thư, ngày càng tăng cao Điều này đã dẫn đến sự thay đổi trong cách tiếp cận và điều trị cho bệnh nhân Nghiên cứu của Nguyễn Minh Hùng cho thấy 85-100% bệnh nhân và gia đình hài lòng với dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà Tương tự, nghiên cứu của Trần Thị Liên cho thấy tỷ lệ đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe người bệnh ung thư tại Trung tâm Ung bướu Thái Bình đạt 83,9% Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy tỷ lệ này là 84,6%, phản ánh sự cải thiện chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân và sự hài lòng của họ cùng gia đình.
4.2.1 Nhu c ầ u và th ự c tr ạ ng đ áp ứ ng nhu c ầ u h ỗ tr ợ thông tin y t ế c ủ a Đ TNC
Cung cấp thông tin y tế cho bệnh nhân là rất quan trọng, giúp họ hiểu rõ về bệnh và tăng cường khả năng phối hợp với nhân viên y tế trong việc lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp Điều này không chỉ nâng cao khả năng tuân thủ điều trị mà còn giúp bệnh nhân đối phó với các tác dụng phụ, giảm lo âu và trầm cảm, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 77,7% bệnh nhân có nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế, tương đồng với nhiều nghiên cứu khác về nhu cầu thông tin của bệnh nhân ung thư Nhu cầu này chủ yếu liên quan đến thông tin chuyên môn từ các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc, và khi nhu cầu này được đáp ứng cùng với hỗ trợ tâm lý xã hội, bệnh nhân sẽ cảm thấy yên tâm hơn trong quá trình điều trị.
Nhu cầu về thông tin y tế rất đa dạng, trong đó, thông tin về chẩn đoán bệnh được người dân quan tâm nhất với tỷ lệ 82,9% Theo sau là nhu cầu tìm hiểu về các phương pháp điều trị, chiếm 79,1%, và thông tin về tiên lượng bệnh với tỷ lệ 77,1% Nhiều nghiên cứu cũng xác nhận rằng chẩn đoán bệnh, phương pháp điều trị và tiên lượng bệnh là những thông tin được tìm kiếm nhiều nhất.
Chẩn đoán ung thư thường gây sốc lớn và tác động đến mọi khía cạnh trong cuộc sống của bệnh nhân Do đó, việc chẩn đoán và tiên lượng chính xác, cùng với các phương pháp điều trị phù hợp, là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả điều trị, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của bệnh nhân trong thời gian nằm viện.
Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định đã đáp ứng tốt nhu cầu thông tin y tế cho bệnh nhân, với tỷ lệ đáp ứng chung đạt 79,7% Trong đó, thông tin về chẩn đoán bệnh được cung cấp cao nhất với tỷ lệ 84,3%, tiếp theo là thông tin về các phương pháp điều trị và mục đích các xét nghiệm, can thiệp điều trị, đều đạt 79,7% Tỷ lệ cung cấp thông tin về tiên lượng bệnh là 77,4%, trong khi nhu cầu thông tin về cách tự chăm sóc và theo dõi sức khỏe thấp nhất, chỉ đạt 69,7% Nghiên cứu của Trần Thị Liên cho thấy tỷ lệ đáp ứng nhu cầu thông tin y tế cho bệnh nhân cao hơn, đạt 92,1%, với thông tin về chẩn đoán bệnh chiếm 91,3%, phương pháp điều trị 86,6%, và tiên lượng bệnh 82,6% Sự khác biệt trong kết quả giữa hai nghiên cứu có thể do độ tuổi của đối tượng nghiên cứu.
Bệnh nhân ung thư có nhu cầu cao về thông tin y tế, và nhu cầu này có thể thay đổi theo từng giai đoạn Do đó, nhân viên y tế cần tăng cường giao tiếp, lắng nghe và chia sẻ với bệnh nhân Việc xác định và giải quyết nhu cầu thông tin của bệnh nhân là rất quan trọng để hỗ trợ họ trong việc ra quyết định và tuân thủ điều trị Đồng thời, việc hiểu rõ thông tin nào là cần thiết và mức độ hài lòng của bệnh nhân với thông tin nhận được sẽ giúp các chuyên gia chăm sóc sức khỏe nhận diện các lĩnh vực cần cải thiện Điều này không chỉ giải đáp thắc mắc của bệnh nhân mà còn tối ưu hóa nguồn lực và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe lấy bệnh nhân làm trung tâm.
4.2.2 Nhu c ầ u và th ự c tr ạ ng đ áp ứ ng nhu c ầ u h ỗ tr ợ th ể ch ấ t, sinh ho ạ t hàng ngày c ủ a Đ TNC
Nhu cầu về thể chất và sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân (NB) là rất quan trọng, đặc biệt khi họ nằm viện điều trị Nghiên cứu cho thấy 77,4% NB cần hỗ trợ về thể chất và sinh hoạt hàng ngày, trong khi 74,6% trong số đó được đáp ứng nhu cầu này Đau là triệu chứng phổ biến ở bệnh nhân ung thư, với 80% bị ảnh hưởng bởi cơn đau liên quan đến bệnh, và 65-80% gặp khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày, gián đoạn giấc ngủ và ảnh hưởng đến tâm trạng cũng như các mối quan hệ xã hội Mặc dù cơn đau do ung thư có thể được kiểm soát tốt ở 90% trường hợp, nhưng hiện tại gần một nửa số NB ung thư ở các nước phát triển vẫn đang chịu đựng cơn đau không được kiểm soát tối ưu.
Trong các nhu cầu hỗ trợ, nhu cầu kiểm soát các triệu chứng như đau, buồn nôn, tiêu chảy, mất ngủ, mệt mỏi và chán ăn chiếm tỷ lệ cao nhất với 78,3% Nghiên cứu của Đỗ Thị Thắm cũng cho thấy tỷ lệ tương tự là 82,4% Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Liên cũng xác nhận nhu cầu này có sự phổ biến đáng kể.
Trong nghiên cứu về nhu cầu chăm sóc bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối tại Thừa Thiên Huế, 99,07% bệnh nhân cho thấy nhu cầu nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, do bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối thường phải chịu đựng nhiều đau đớn và sự đối mặt với cái chết, ảnh hưởng đến cả thể chất lẫn tinh thần Các triệu chứng như đau đớn, mệt mỏi và mất ngủ là phổ biến, dẫn đến nhu cầu giảm đau và kiểm soát triệu chứng bệnh Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, tất cả bệnh nhân bị đau cần được điều trị giảm đau và cải thiện chất lượng sống Do đó, việc đánh giá cơn đau và can thiệp phù hợp theo nhu cầu cá nhân là rất cần thiết.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tại địa điểm khảo sát, nhu cầu kiểm soát triệu chứng của người bệnh (NB) được đáp ứng khá tốt với tỷ lệ 76,6%, tương đồng với nghiên cứu của Trần Thị Liên (81,1%) Điều này chứng tỏ rằng việc hỗ trợ giảm đau cho NB đang dần được cải thiện nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống (CLCS) Đối với NB ung thư, sự phát triển nhanh chóng của khối u kéo theo nhu cầu dinh dưỡng tăng cao, cùng với các triệu chứng do điều trị như nôn, buồn nôn, chán ăn, tiêu chảy hoặc táo bón, dẫn đến nhu cầu hỗ trợ dinh dưỡng lớn Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 75,1% NB cần hỗ trợ dinh dưỡng, và 78,3% trong số đó được đáp ứng nhu cầu này, tương đồng với nghiên cứu của Trần Thị Liên (71,1% nhu cầu và 72,6% được đáp ứng).
Một số yếu tố liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của ĐTNC
4.3.1 M ộ t s ố y ế u t ố liên quan đế n nhu c ầ u h ỗ tr ợ thông tin y t ế c ủ a Đ TNC
Nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố giới tính, tuổi, nghề nghiệp và giai đoạn bệnh đối với nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế (p0,05.
Nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Trần Thị Liên và Đỗ Thị Thắm về mối liên hệ giữa độ tuổi và nhu cầu thông tin y tế Những người từ 60 tuổi trở lên có nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế cao hơn so với nhóm dưới 60 tuổi Điều này có thể được giải thích bởi vì người trẻ tuổi có khả năng tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như Internet, sách và báo, trong khi nhóm tuổi cao hơn thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, chủ yếu nhận được thông tin từ nhân viên y tế, dẫn đến nhu cầu chưa được đáp ứng đầy đủ.
Nghề nghiệp có ảnh hưởng rõ rệt đến nhu cầu thông tin y tế, đặc biệt là ở đối tượng cán bộ viên chức và hưu trí, nhóm này có nhu cầu cao hơn so với nông dân và công nhân Khi mắc bệnh ung thư, họ thường tìm kiếm thông tin chi tiết về tình trạng sức khỏe của mình Đặc biệt, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phần lớn đối tượng tham gia là người cao tuổi và hưu trí, điều này càng làm tăng nhu cầu thông tin y tế trong nhóm này so với nhóm nông dân và công nhân.
Nghiên cứu cho thấy nhu cầu thông tin y tế tăng cao khi bệnh ở giai đoạn nặng, đặc biệt ở những bệnh nhân cao tuổi Khi phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn, họ có xu hướng tìm kiếm thông tin về chẩn đoán, phương pháp điều trị, tiên lượng, xét nghiệm cần thiết và các cơ sở điều trị đáng tin cậy Điều này giúp họ có kế hoạch hợp lý trong việc ra quyết định điều trị bệnh của mình.
Như vậy, NVYT cần phải thường xuyên tìm hiểu nhu cầu về thông tin y tế của
NB để từ đó cung cấp các thông tin cho NB một cách kịp thời đáp ứng nhu cầu cũng như sự hài lòng của NB
4.3.2 M ộ t s ố y ế u t ố liên quan đế n nhu c ầ u h ỗ tr ợ th ể ch ấ t, sinh ho ạ t c ủ a Đ TNC
Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Liên cho thấy giới tính, tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp không có sự khác biệt đáng kể với nhu cầu hỗ trợ thể chất Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng tuổi tác, trình độ học vấn, nghề nghiệp và giai đoạn bệnh có mối liên quan thống kê đến nhu cầu hỗ trợ thể chất và sinh hoạt (p