Chương 3: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN CÔ TÔ, TỈNH QUẢNG NINH
3.2. Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở huyện Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2011 - 2013
3.2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng
Huyện Cô Tô gồm 02 xã và một thị trấn. Sự phân chia vùng kinh tế của huyện vẫn chưa được rõ nét, nhìn chung Các vùng khác có chuyển đổi nhưng tốc độ chậm và không đều giữa các xã trong vùng, giữa các vùng vẫn chưa có sự liên kết trong công tác chuyển dịch cây trồng, vật nuôi.
3.2.2.1. Vùng gò đồi
Vùng gò đồi của huyện là xã Đồng Tiến. Đây là vùng có địa hình đồi núi cao so với thị trấn và xã Thanh Lân, do đó mà cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong vùng đã có sự chuyển dịch nhưng chậm và không đều. Đặc biệt ở xã Đồng Tiến do quá trình chuyển đổi đất đai nông nghiệp sang đất chuyên ngành không theo qui hoạch của Nhà nước đã gây thiệt hại đáng kể cho nông nghiệp và Nhà nước ta.
Sự chuyển dịch sang sản xuất hàng hóa tập trung chủ yếu vào một số trang trại và một số nơi có lợi thế so sánh đối với một số loại sản phẩm (cây ăn quả, chăn nuôi bò, nuôi gà đồi..). Hầu hết các hộ gia đình vẫn giữ phương thức luân canh trên hai nền lúa nước. Tuy nhiên mô hình ứng dụng giống lúa mới của hộ gia đình nhà anh Diêm ở xã Đồng Tiến cấy lúa lai Trung Quốc cho năng suất 240tạ/sào cao gấp 2 lần các giống lúa thường, lại là mô hình mà nguời dân trong vùng có thể tham khảo.
Cơ cấu diện tích gieo trồng các loại cây ngắn ngày ít có sự thay đổi, chủ yếu vẫn trồng lạc, ngô và khoai lang. Tuy nhiên gần đây cũng đã xuất hiện các hướng sản xuất mới nhằm đạt giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích. Điển hình như: Mô hình trồng cây dưa chuột Đài Loan vụ đông cho năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
suất 1- 1,5 tấn/ sào, cho thu nhập cao gấp 3-5 lần so với trồng các cây vụ đông khác. Diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao như hoa và cây rau cũng tăng lên đáng kể.
Cơ cấu sản phẩm chăn nuôi có sự thay đổi mạnh trong thời gian gần đây. Một số mô hình chăn nuôi mới như: Mô hình chuyển đổi đất trũng sang nuôi trồng thủy sản hộ gia đình ông Lê Mạnh Hùng ở Thanh Lân bước đầu mang lại thu nhập cao gấp nhiều lần trồng lúa. Đặc biệt ông Hùng đã nuôi thành công tôm càng xanh đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Nhiều mô hình ứng dụng giống gia cầm mới: vịt SuperM, CV2000, ngan Pháp, vịt trứng Triết Giang; các giống gà thả vườn như gà đồi,Tam Hoàng, Lương Phượng, Kabir... đã được nhân rộng và được người dân coi là hướng làm kinh tế chính.
Dịch vụ nông nghiệp còn phát triển chậm, mới chỉ tập trung vào các hoạt động dịch vụ giống và vật tư nông nghiệp, còn các dịch vụ khác còn rất hạn chế. Hoạt động ứng dụng tiến bộ khoa học cộng nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn mang tính tự phát, chưa theo một chương trình chụ thể, và bản thân nhiều hộ còn lúng túng trước sự đổi mới của công nghệ trong nông nghiệp.
3.2.2.2. Vùng trũng
Trên vùng sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong ngành trồng trọt của các xã còn rất chậm, cây lúa vẫn giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống cây trồng.
Các công thức luân canh cây trồng vẫn bố trí trên nền sản xuất hai vụ lúa nên hiệu quả chưa cao. Với địa hình là vùng trũng có khả năng nuôi trồng thủy sản, do đó trong thời gian gần đây cũng đã xuất hiện nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản kết hợp: Mô hình chuyển đổi từ cấy lúa một vụ sang cấy lúa kết hợp với nuôi trồng thủy sản của gia đình ông Nguyễn Khắc Lương thôn ở xã Thanh Lân năm 2013 đạt thu nhập gấp 6,75 lần năm 2011; Mô hình chuyển đổi từ cấy 2 vụ lúa bấp bênh sang nuôi trồng lúa + gà đồi của hộ gia đình ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Huy Kế xã Đồng Tiến năm 2012 đạt thu nhập gấp 87 lần trước khi chuyển đổi.
Bên cạnh những mô hình chuyển đổi hiệu quả, trong vùng cũng có một số mô hình không thành công, tiêu biểu là mô hình nuôi thủy sản của ông Trần Văn Nghị xã Thanh Lân, gia đình ông có 5 lao động, nhận thầu đầm hoang của xã để nuôi thả cá. Khi nước lớn đầm có diện tích là: 25 ha; nếu ở mức bình thường thì chỉ rộng: 5 ha; khi cạn là: 2,5 ha. Năm 2013 với tổng số 33,5 triệu đầu tư cho thả cá trên diện tích 5 ha, vì thiên tai, mưa lớn đập bị tràn, vỡ, cá bị thất thoát, gia đình ông chỉ thu được 29,1 triệu đồng, lỗ 4,4 triệu đồng.
Tỷ trọng ngành chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của vùng tăng dần, đặc biệt là phát triển chăn nuôi lợn thịt và chăn nuôi gia cầm. Trong vùng cũng có một số mô hình chăn nuôi bò sữa có triển vọng nhưng qui mô nhỏ, chưa được nhân rộng.
Các hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp đã có bước phát triển mới nhằm phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu nhưng cũng còn rất chậm và chưa đa dạng.
3.2.2.3. Vùng giữa
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn biến theo chiều hướng tích cực. Tỷ trọng ngành chăn nuôi khá cao chiếm gần 50%, tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp không đều giữa các xã trong vùng, chỉ chủ yếu tập trung vào các xã: Đồng Tiến, Thanh Lân... còn thị trấn của huyện Cô Tô thì rất chậm.
Ngành trồng trọt có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng cây lương thực để chuyển sang sản xuất các loại sản phẩm khác có tỷ suất hàng hóa cao và giá trị kinh tế cao hơn như trồng cây họ đậu, trồng hoa nhài, trồng lạc....nhưng tiến trình dịch chuyển còn chậm do khó khăn về thị trường và nước tưới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chăn nuôi khá phát triển, đặc biệt là chăn nuôi lợn thịt và gia cầm. Mấy năm gần đây đã xuất hiện một số mô hình phát triển chăn nuôi gà đồi ở xã Đồng Tiến bước đầu cho hiệu quả kinh tế đáng ghi nhận. Cô Tô là huyện đảo, địa hình chủ yếu là đồi núi, có lợi thế về đồi bãi rộng lớn, được phủ kín bởi rừng, rất thích hợp cho việc chăn thả gia cầm.Từ thực tế các hộ chăn nuôi với quy mô nhỏ và phân tán nên cần phải quy hoạch thành từng vùng tập hợp các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ thành một tổ chức có quyền lợi chung nhằm phát huy sức mạnh tập thể trong cơ chế thị trường, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, xác lập giá trị và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Các hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp trong những năm gần đây đã có bước phát triển mới phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt và chăn nuôi song chưa đáp ứng được các nhu cầu của sản xuất.
Qua đây ta thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo vùng của huyện tuy đã thu được những kết quả khả quan, và theo chiều hướng tăng tỷ trọng các ngành lợi thế của mỗi vùng: Vùng gò đồi tập trung vào các mô hình chuyển đổi diện tích gieo trồng lúa sang trồng cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày cho năng suất và giá trị kinh tế cao hơn so với cây lúa; Vùng đất giữa lại tập trung vào việc chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản kết hợp với trồng trọt, diện tích ngành trồng trọt cũng giảm đi đáng kể, thay vào đó là diện tích rau màu sạch được tăng dần qua các năm; Vùng đất bằng phát triển khá nhanh và mạnh các mô hình chăn nuôi gia súc và gia cầm, đặc biệt và chăn nuôi lợn thịt và gà đồi, việc chuyển đổi này đã mang lại thu nhập cao cho người làm nông nghiệp. Bên cạnh những kết quả đó thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng của huyện vẫn còn khá nhiều bất cập, do trình độ của người lao động chưa cao cộng với việc chưa có định hướng qui hoạch vùng cụ thể dẫn đến nhiều khi người dân chuyển đổi tự phát lan tràn không kiểm soát được, do vậy những hậu quả để lại rất khó khắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phuc. Nhiều nơi người dân không hưởng ứng các chương trình chuyển đổi, do không hiểu và biết được vai trò quan trọng của các dự án.