CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VHNT TẠI CÁC TRƯỜNG THCS
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
a. Quản lý
Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực khác nhau đề đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về quản lý khác nhau, cụ thể:
Theo Koontz và cộng sự thì cho rằng quản lý là một hoạt động thiết yếu, đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực hoạt động các nhân nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Quản lý nhằm mục tiêu là hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được mục đích của mình cũng như của tổ chức với các chi phí về tài chính, vật
chất, thời gian là ít nhất nhưng phải đảm bảo sự hài lòng của con người là cao nhất [42].
Còn theo Hanry Fayol thì quản lý là sự lãnh đạo hệ thống trên cơ sở hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra nhằm đạt được các mục tiêu tổ chức đã định trước [29].
Nhưng theo Nguyễn Minh Đạo thì quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức và có định hướng của chủ thể quản trị (người lãnh đạo, người quản lý…) lên đối tượng bị quản lý (đối tượng chịu sự quản lý, nhân viên cấp dưới…) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế…bằng một hệ thống các luật lệ và các chính sách, cũng như các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện phát triển cảu đối tượng [dẫn theo 29].
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau nên có nhiều khái niệm về quản lý được đưa ra, tuy nhiên các khái niệm về quản lý đều có yếu tố chung đó là quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý trong một môi trường nhất định nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Hoạt động quản lý phải là sự tác động định hướng, có mục đích, có kế hoạch để đưa hệ thống vào một trật tự ổn định, tạo đà cho một sự phát triển mạnh, nhanh và bền vững.
Từ khái niệm này cho thấy một số điểm cần chú ý sau: i) quản lý là hoạt động có mục đích, có định hướng của con người; ii) hệ thống quản lý gồm có hai phân hệ:
chủ thể và khách thể quản lý; iii) tác động quản lý thường mang tính tổng hợp bao gồm nhiều giải pháp khác nhau.
b. Chức năng của quản lý
Quản lý tổ chức gồm 4 chức năng cụ thể lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Lập kế hoạch: Là việc xác định mục tiêu và phương pháp để đạt được mục tiêu của tổ chức trong tương lai. Xác định mục tiêu không những giúp cho mỗi người trong tổ chức biết rõ kết quả mà còn để phân bổ nguồn lục của tổ chức một cách hợp lý nhất trên toàn bộ tiến trình quản trị. Hoạch định gồm ba giai đoạn như thiết lập các mục tiêu cho tổ chức: Mức tăng lợi nhuận, thị phần, hoặc tăng doanh thu...; sắp xếp các nguồn lực của tổ chức để đạt mục tiêu; quyết định về những hoạt động của tổ chức như: Ra quyết định là quá trình lựa chọn một phương án hành động hợp lý nhất để đạt mục tiêu đã đề ra (lựa chọn một phương án đưa ra xem xét). Ra quyết định đúng trong điều kiện môi trường biến động. Đó là một thách thức đối với các nhà quản trị: [53]
Tổ chức thực hiện: Là việc xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị, xây dựng bộ máy quản trị, là phân chia quyền lực tạo lập quyền hành cho từng bộ phận của tổ chức. Là quá trình tạo ra cơ cấu mối quan hệ giữa các thành viên các bộ phận trong tổ chức. Từ
đó cho phép họ thực hiện các kế hoạch và hoàn thành các mục tiêu chung của tổ chức.
[53]
Tiến trình tổ chức bao gồm các nội dung công việc: Thiết lập các bộ phận, phòng ban và xây dựng bảng mô tả công việc tổ chức bao gồm cả chức năng nhân sự:
tuyển mộ, tuyển chọn, huấn luyện và phát triển nguồn nhân lực, do đó, mọi người đều có thể đóng góp nỗ lực vào thành công của tổ chức.
Truyền đạt thông tin, tri thức, kỹ thuật, chỉ thị, mệnh lệnh, thông tin cần thiết để thực hiện công việc, đồng thời nhận thông tin phản hồi.
Chức năng lãnh đạo – chỉ huy (thúc đẩy động viên): Là chức năng thúc đẩy, động viên nhân viên theo đuổi những mục tiêu đã lựa chọn để hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Bằng các chỉ thị, mệnh lệnh và động viên bằng thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần. Các nhà quản trị thực hiện các chức năng chỉ huy để thúc đẩy, động viên nhân viên hoàn thành các mục tiêu đã đề ra. [53]
Chức năng kiểm tra, kiểm soát: Là quá trình giám sát chủ động đối với công việc của một tổ chức, so sánh với tiêu chuẩn đề ra và điều chỉnh khi cần thiết. Quá trình kiểm soát là quá trình tự điều chỉnh liên tục và thường diễn ra theo chu kỳ. [53]
Bốn chức năng của quản trị nói trên có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, và được thực hiện theo một trình tự nhất định. Quá trình quản trị phải thực hiện đồng bộ các chức năng nói trên, nếu không quá trình quản trị sẽ không đạt hiệu quả như mong muốn
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Theo M.I. Kônđacôp: Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ quản lý ở các cấp khác nhau, đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em [21;124].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục thực chất là tác động đến nhà trường, làm cho nó tổ chức tối ưu được quá trình dạy học, giáo dục thể chất theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, quán triệt được những tính chất trường THPT xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bằng cách đó tiến tới mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái chất lượng mới về chất” [28, tr.68]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo
dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến lên trạng thái mới về chất.”
[17, tr.89]
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau nên có nhiều khái niệm về quản lý được đưa ra, tuy nhiên các khái niệm về quản lý đều có yếu tố chung đó quản lý giáo dục là tập hợp các kế hoạch, biện pháp nhằm đảm bảo cho sự phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt chất lượng và số lượng một cách bình thường của phía cơ quan trong hệ thống giáo dục
1.2.1.3. Quản lý nhà trường
Theo tác giả M.I. Kondacov đã khái quát “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh, chúng ta hiểu quản lý nhà trường (công việc nhà trường là một hệ thống xã hội- sư phạm chuyên biệt). Hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt xã hội- kinh tế, tổ chức- sư phạm của quá trình dạy- học và GD thế hệ đang lớn lên” [22].
Trong thực tiễn giáo dục ở Việt Nam, tác giả Phạm Minh Hạc đã xác định:
“quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [16].
Từ những nghiên cứu trên tác giả cho rằng quản lý nhà trường là thực hiện xây dựng kế hoạch, biện pháp dựa trên những quan điểm đường lối của Đảng và căn cứ vào đặc điểm điều kiện của địa phương để tiến tới đạt được mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ và từng học sinh