CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VHNT TẠI CÁC TRƯỜNG THCS
1.3. Đổi mới giáo dục và yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng văn hóa nhà trường THCS
1.3.1. Đổi mới giáo dục phổ thông
Quan điểm phát triển giáo dục được Đảng và Nhà nước đã xác định từ lâu, Đại hội VII (6-2091) xác định khoa học và giáo dục đóng vai trò theo chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Thực sự coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (01- 2011) đề ra chủ trương "Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo". Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giá dục, đào tạo. Đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, ý trức trách nhiệm với xã hội. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Ngày 04 tháng 11 năm 2013, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Quan điểm chỉ đạo của Đảng: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học;
đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học” [10].
Về mục tiêu: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất tốt đẹp, năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, phát hiện bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học. Từ đó học sinh trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời.
Về nội dung: Giúp học sinh hình thành và phát triển phẩm chất các năng lực chung và các năng lực đặc thù, hài hòa đức, trí, thể, mỹ. Học sinh tự điều chỉnh bản thân theo các chuẩn mục chung của xã hội, biết vận dụng các phương pháp học tập tích cực để hoàn chỉnh tri thức và kỹ năng của mình. Có khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích của bản thân. Nội dung chương trình phải đảm bảo chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế; đảm bảo tính hoàn chỉnh, linh hoạt, liên thông thống nhất trong và giữa các cấp học; tích hợp và phân hóa hợp lý. Đổi mới nội dung theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi và trình độ nhận thức của học sinh;
tăng cường thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.
Về đổi mới phương pháp dạy học: Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; khắc phục lối truyền thụ áp đặp một chiều phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong các nhà trường. Áp dụng phương pháp
“lấy người học là trung tâm” để thực hiện trong giảng dạy, giúp học sinh chủ động hơn trong học tập. Đồng thời giáo viên hướng dạy học vào dạy cách học và rèn
luyện năng lực tự học, tạo cơ sở để học tập suốt đời, tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực cá nhân. Người thầy đứng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động học tập tự phát triển năng lực.
Về hình thức dạy học: Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Trong điều kiện cho phép, nhà trường có thể tổ chức dạy học trực tuyến; dạy học online, qua Internet...
cân đối giữa dạy học và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo; giữa hoạt động tập thể, nhóm nhỏ và cá nhân; giữa dạy học bắt buộc và dạy học tự chọn để đảm bảo hiệu quả của việc giáo dục đạo đức, lối sống và rèn luyện kỹ năng cho học sinh, vừa đảm bảo chất lượng giáo dục chung, vừa phát triển tiềm năng cá nhân người học.
Về phương tiện dạy học: Trước đây phương tiên dạy học chỉ là mô hình, bản đồ tranh ảnh bằng chất liệu giấy, hay thiết bị thí nghiệm ở thể vật chất cụ thể. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 đã chú trọng tới việc sử dụng các thiết bị, phương thiện dạy học ứng dụng công nghệ thông tin như thí nghiệm ảo, sách điện tử, mô hình điện tử, tranh ảnh, bản đồ điện tử... Việc tăng cường hiệu quả của các phương tiện dạy học, tạo điều kiện cho học sinh được học tập qua các nguồn học liệu đa dạng, phong phú. Đây là cơ sở quan trọng cho việc phát triển năng lực tự học và chuẩn bị tâm thế học tập suốt đời cho học sinh.
Về kiểm tra, đánh giá: Đổi mới đánh giá theo hướng coi trọng phát triển năng lực người học, theo các quan điểm đánh giá tiên tiến trên thế giới: đánh giá vì việc học và đánh giá chính là việc học. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học tập với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học, đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học, đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình và xã hội để mang tính khách quan hơn. Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính, định lượng thông qua đính giá thường xuyên và định kỳ ở các cơ sở giáo dục. Phương pháp đánh giá đảm bảo sự tin cậy, khách quan phù hợp với mọi lứa tuổi không gây áp lực lên học sinh, hạn chế tốn kém ngân sách của nhà nước, gia đình và xã hội
1.3.2. Yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng văn hóa nhà trường THCS trong bối cảnh đổi mới giáo dục
Xây dựng VHNT trong giai đoạn hiện này được rất nhiều trường học quan tâm.
Công tác xây dựng VHNT nói chung và VHNT THCS nói riêng cần xây dựng phải thích ứng với bối cảnh đổi mới về giáo dục. Các tác động của bối cảnh giáo dục đòi hỏi sự thay đổi giáo dục và sự đáp ứng của giáo viên để thực hiện những thay đổi này.
Trước đây giáo dục coi trọng dạy chữ mà lơ là việc dạy người; coi trọng số lượng hơn là chất lượng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với nhà trường là đào tạo học sinh ngoài kiến thức, kỹ năng mà còn xây dựng thái độ và phẩm chất để đảm bảo chất lượng toàn diện. Do đó, nhà trường cần phải có những kế hoạch không chỉ cho hoạt động học tập mà còn cho cả hoạt động văn hóa, truyền đạt văn hóa đạo đức cho học sinh, thay vì chỉ làm theo phong trào và qua loa dẫn đến hoạt động xây dựng phẩm chất văn hóa đạo đức cho học sinh bị xem nhẹ. Lãnh đạo nhà trường luôn quán triệt với toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh ngoài học tập phải luôn giữ được chuẩn mực văn hóa phù hợp của người cán bộ, giáo viên và của người học sinh.
Các nghiên cứu về quản lý nhà trường gần đây đều cho rằng VHNT là một yếu tố quan trọng trong việc quản lý nhà trương [39; 28; 6] các nghiên cứu tuy ở những góc độ khác nhau nhưng đều thống nhất VHNT là định hướng cho sự phát triển của nhà trường, VHNT là quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản lý điều hành hoạt động giảng dạy trong nhà trường [6]. Hay VHNT có vài trò định hướng mục tiêu cho nhà trường, quản lý điều hành tổng thể các hoạt động của nhà trường nói chung [28].
VHNT hình thành nên hành vi ứng xử của các chủ thể trong nhà trường, là lối sống văn mình của trường học, ứng xử giữa giáo viên – học sinh, nhà trường – cộng đồng
… [39]
Trước các thực tiển tầm quan trọng của VHNT đối với hoạt động của nhà trường. Yêu cầu đối với ban lãnh đạo nhà trường cần khuyến khích, tạo cơ hội cho các hoạt động giảng dạy tích hợp cho học sinh có sự trải nghiệm thực tế thay vì chỉ lý thuyết thuần túy. Rà soát, xem xét đánh giá những nội dung đang giảng dạy đề từ đó loại trừ đi những nội dung học không còn phù hợp với yêu cầu giảng dạy trong bối cảnh mới, để đi thẳng vào nội dung thực chất, học thật thi thật, loại bỏ các nội dung mang tính thành tích … ra khỏi hoạt động của nhà trường. Thông qua xây dựng VHNT để định hướng xây dựng trường học có tính chất lượng.
Yêu cầu đối giáo viên không chỉ có kiến thức về môn học đảm nhiệm mà còn phải am hiểu những kiến thức ở những lĩnh vực khác liên quan, tức là phải có kiến thức sâu và rộng. Trong dạy học tích hợp và dạy học phân hóa, giáo viên không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà còn đóng vai trò tổ chức, kiểm tra, định hướng học tập cho học sinh, không đơn thuần chuyển tải những kiến thức có sẵn ở SGK mà phải chủ động xây dựng các chủ đề và tổ chức dạy học có hiệu quả giúp học sinh năng động và tích cực hơn. Đồng thời, Người giáo viên không chỉ thực hiện chức năng dạy học, giáo dục mà còn là người chuẩn mực về văn hoá, đạo đức... làm tấm gương để học sinh noi theo, và người trực tiếp truyền tải đạo đức, văn hóa cho học sinh.
Nhà trường cần luôn có những đợt tập huấn để nâng cao trình độ cả về chuyên môn và phẩm chất cho giáo viên. Đề giáo viên có đủ năng lực dạy học đồng thời áp dụng các phương pháp dạy học mới phù hợp hơn cho học sinh.
Tóm lại, xây dựng văn hóa là một nội dung rất quan trọng của quá trình xây dựng môi trường giáo dục. Điều đó thể hiện tầm quan trọng của nó trong việc xây dựng môi trường giáo dục trong bối cảnh mới. VHNT còn giúp các học sinh về khả năng thích nghi với xã hội. Một con người có văn hóa thì trong con người đó luôn hội tụ đầy đủ những giá trị đạo đức căn bản, đó là đức tính khiêm tốn, lễ độ, thương yêu con người, sống có trách nhiệm với bản thân và xã hội... Do vậy, khi gặp những tình huống xã hội phát sinh, dù là những tình huống mà các học sinh chưa từng trải nhưng nhờ vận dụng năng lực văn hóa để điều tiết hành vi một cách hài hòa, học sinh có thể tự điều chỉnh mình phù hợp với hoàn cảnh, ứng xử hợp lẽ, hợp với lòng người và cuộc sống xung quanh