Những hạn chế và nguyên nhân

Một phần của tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế giá trị gia tăng khu vực ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện tương dương, tỉnh nghệ an (Trang 76 - 81)

CHƯƠNG 2 TH ỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ

2.5. Đánh giá chung về công tác quản lý thu thuế GTGT của chi cục thuế Tương Dương đối với doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Tương Dương

2.5.2. Những hạn chế và nguyên nhân

* Những hạn chế cần khắc phục.

Mặc dù số thu trên địa bàn đạt tỷ lệ cao, song vẫn còn thất thu ở một số lĩnh vực thuế NQD. Nhìn chung, trình độ hiểu biết về thuế, ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh thuế của đại bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Nhà nước còn nhiều hạn chế, chưa tạo được dư luận rộng rãi lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lận về thuế, thậm chí còn khá nhiều trường hợp thờ ơ, khuyến khích, đồng tình.

Một số cán bộ quản lý thuế trình độ hiểu biết và thực thi về chính sách thuế còn hạn chế; thái độ và phong cách ứng xử còn một số trường hợp chưa thật tận tuỵ, công tâm, khách quan giữa quyền lợi của Nhà nước với quyền lợi của ĐTNT; chưa trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện luật thuế.

Tình trạng trốn thuế, gian lận thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra ở nhiều đơn vị kinh doanh, gây thất thu cho ngân sách. Một số doanh nghiệp cố ý tìm mọi thủ đoạn, dưới mọi hình thức gian lận các khoản tiền thuế phải nộp

như: kê khai khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT từ ngân sách Nhà nước; một số khác các doanh nghiệp xây dựng không kê khai công trình đã bàn giao hoàn thành, không xuất hóa đơn, gây thất thoát tiền thuế của Nhà nước.

Chất lượng công tác thanh tra- kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế còn hạn chế, chưa phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi gian lận trong việc tính thuế, kê khai thuế, gian lận trong hoàn thuế, miễn giảm thuế. Chức năng và quyền hạn của thanh tra- kiểm tra thuế còn bị bó hẹp, chưa trở thành công cụ có hiệu lực để chống thất thu ngân sách và răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế.

Công tác kiểm tra, phúc tra đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh vi phạm xử lý chưa kiên quyết, còn nể nang, ngại va chạm. Công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế chưa được chủ động.

Công tác rà soát tờ khai thuế GTGT và đánh giá quyết toán thuế, theo dõi tình hình nợ đọng còn hạn chế, do việc theo dõi tình hình thu nộp thuế chưa khoa học, nghiệp vụ kế toán còn nhiều hạn chế và chưa phát huy được tinh thần tự chủ, sáng tạo để nắm bắt tình hình kinh doanh thực tế của các doanh nghiệp, chưa chủ động tham mưu đề xuất biện pháp quản lý để ngăn chặn các hiện tượng trốn thuế.

Sự kết hợp giữa các đội thuế chưa thật sự đồng bộ, còn có hiện tượng việc ai nấy làm, chưa thường xuyên kết hợp với các đội thuế xã để kiểm tra, còn thiếu sự khảo sát tình hình kinh doanh thực tế của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các đội còn hạn chế, đặc biệt là đội kiểm tra&QLN và đội kê khai-kế toán thuế trong việc theo dõi tình hình nợ đọng thuế.

Nhiều khi cán bộ thuế còn ngại khó, ngại va chạm với các doanh nghiệp, làm việc một cách thụ động, chỉ quan tâm tới các đơn vị đã hoạt động từ trước còn những cơ sở mới phát sinh lại thờ ơ hoặc có làm nhưng chỉ qua loa.

Cán bộ làm công tác thanh tra-kiểm tra, bám sát địa bàn, không phải là cán bộ cố định, chủ yếu cán bộ tăng cường miền núi, sau thời gian tăng cường lại luân chuyển nên công tác thanh tra- kiểm tra bám sát địa bàn không được tốt.

Để xảy ra tình hình trên một phần là do cơ quan thuế, mà ở đây là Chi cục thuế Tương Dương chưa chủ động; mặt khác là do các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân chưa nhận thức rõ, đầy đủ vai trò và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ thu ngân sách.

* Những nguyên nhân chủ yếu:

Thuế thực chất là một phần thu nhập mà ĐTNT trích nộp vào NSNN, do đó khi Nhà nước đánh thuế tức là động chạm đến lợi ích của người nộp thuế, họ sẽ phản ứng bằng nhiều cách khác nhau với mục đích nộp thuế càng ít càng tốt, họ không thấy được lợi ích của việc nộp thuế, cho nên những tồn tại trong công tác quản lý thu thuế của cơ quan thuế luôn là yếu tố khách quan.

Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại này là:

Thứ nhất: Là do ý thức của các doanh nghiệp chưa tốt, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ còn hạn chế. Các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, thương mại, lúc bán cho khách hàng lẻ thường không xuất hóa đơn, chứng từ, bỏ ngoài sổ sách kế toán vẫn thường xuyên diễn ra.

Thứ hai: Phải kể đến là sự hạn chế về số lượng và trình độ nghiệp vụ của cán bộ thuế, cán bộ thuế một phần là do chuyển ngành, chưa được đào tạo chính quy để thực hiện công tác thuế, một phần chỉ học qua các lớp tại chức, chưa được đào tạo lại. Sự thiếu kiên quyết khi xử phạt hành chính đối với những hành vi vi phạm đã tạo ra tâm lý coi thường pháp luật của các ĐTNT.

Thứ ba: Là do mức thu nhập của cán bộ quản lý chưa cao, so với tốc độ tăng trưởng, với mức tăng của giá cả thì khả năng thu nhập đó rất khó khăn

trong việc đảm bảo đời sống, đó chính là lý do làm cho một phần tinh thần nhiệt huyết của các cán bộ quản lý bị giảm sút. Ngoài ra còn tạo ra sự ảnh hưởng của đồng tiền, làm cho một số cán bộ thuế có những hành vi trái pháp luật như: bao che, móc ngoặc với ĐTNT để thực hiện mục đích cá nhân, ĐTNT thì có cơ hội trốn được thuế còn cán bộ quản lý thì lại có thêm thu nhập.

Thứ tư: Là do chính sách thuế còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội lách luật. Hệ thống chính sách thuế còn nhiều mức thuế suất, chưa thực sự đảm bảo bình đẳng, công bằng về nghĩa vụ nộp thuế, dễ phát sinh tiêu cực làm phức tạp công tác quản lý thuế.

Thứ năm: Là những quy định xử phạt thực sự chưa đồng bộ, chưa phát huy được hiệu lực như: Trong quá trình quản lý, cán bộ quản lý thuế có thẩm quyền kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ nhưng lại có thẩm quyền xử phạt rất thấp không có tính răn đe( mức phạt theo nghi định 105/2013/ND- CP); hay khi phát hiện những đối tượng có dấu hiệu gian lận, muốn thanh tra- kiểm tra lại phải đợi quyết định của cấp trên, như vậy công tác quản lý dễ bị gián đoạn, đó là cơ hội cho đối tượng thực hiện hành vi gian lận.

Trên đây là một số những hạn chế và nguyên nhân chính đang tồn tại trong công tác quản lý thu thuế của chi cục thuế Tương Dương, cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể để sớm khắc phục được tình trạng trên nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD trên địa bàn.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Nêu lên thực trạng hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Tương Dương, đánh giá chung những nguyên nhân và hạn chế trong công tác quản lý thu thuế trên địa bàn huyện Tương Dương.

CHƯƠNG 3

Một phần của tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế giá trị gia tăng khu vực ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện tương dương, tỉnh nghệ an (Trang 76 - 81)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(101 trang)