Nhân vật tiêu biểu

Một phần của tài liệu Lịch sử việt nam từ nguồn gốc đến năm 1884 (Trang 54 - 57)

Ngoài những ông vua lỗi lạc của nh{ Lý như Lý Th|i Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nh}n Tông, nước Việt thời Lý còn có những nhân vật nổi tiếng như Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Th{nh, Lê Văn Thịnh... đặc biệt có Lý Thường Kiệt, một nhà quân

sự tài ba và ỷ Lan Nguyên phi, một người phụ nữ đ~ ph|t huy được khả năng trong việc cai trị đất nước.

ỷ Lan nguyên phi

ỷ Lan quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Hà Bắc). Năm 1062 vua Lý Th|nh Tông đ~ 40 tuổi m{ không có con nên thường đi c|c nơi để cầu tự. Một hôm vua qua làng Thổ Lỗi, trong khi mọi người đổ ra đường xem xa gi| thì b{ đang h|i d}u, chỉ đứng dựa cây lan mà nhìn. Vua thấy thế làm lạ, cho gọi đến để hỏi. Thấy b{ xinh đẹp, đối đ|p dịu dàng lại thông minh sắc sảo, vua đưa về cung và phong làm ỷ Lan phu nhân.

Năm 1066 b{ sinh Th|i tử C{n Đức v{ được phong là Nguyên phi.

Lúc bấy giờ giữa Đại Việt v{ Champa đang xảy ra chiến tranh biên giới. Vua Lý Thánh Tông phải th}n chinh đi đ|nh (1069). Vua giao cho bà quyền giám quốc. Sau nhiều trận không thành công, Lý Thánh Tông rút quân về nước. Trên đường về kinh đô, nghe b|o l{ b{ ỷ Lan thay vua trị nước được yên vui, Th|nh Tông nghĩ: "Người đ{n b{ trị nước còn được như thế, ta đi đ|nh Chiêm Th{nh không thành công, thế ra đ{n ông hèn lắm {! Vua đem qu}n trở lại và lần này chiến thắng.

Năm 1072, Lý Th|nh Tông mất, Thái tử C{n Đức mới bảy tuổi lên nối ngôi. Bà được phong làm Thái phi. Có tài liệu ghi rằng lúc bấy giờ Thái hậu họ Dương buông rèm lo việc triều chính. ỷ Lan lên làm Hoàng Thái Hậu (tức Linh Nhân Thái Hậu) giúp vua trị nước. Trước họa nhà Tống lăm le x}m lăng Đại Việt, b{ đ~ nghe theo lời Lý Thường Kiệt gọi Lý Đạo Thành trở lại giữ chức Th|i phó Bình Chương qu}n quốc trọng sự để lo việc triều chính. Đ}y l{ lúc triều đình nh{ Lý tổ chức thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống. Lý Thường Kiệt đ~ đem qu}n đ|nh sang tận Ung Ch}u, Liêm Ch}u, năm sau chận đứng qu}n x}m lăng ở sông Như Nguyệt buộc chúng phải rút về nước. Trong việc trị nước, Thái hậu coi trọng việc phát triển nông nghiệp, bảo vệ trâu bò dùng làm sức kéo. Thương những phụ nữ nghèo khổ phải đem th}n thế nợ, không thể lập gia đình, b{ cho xuất tiền chuộc họ v{ tìm người gả chồng cho.

Thái hậu cũng chú ý mở mang đạo Phật. Tương truyền b{ đ~ cho x}y dựng đến 100 ngôi chùa để mong chuộc lại lỗi đ~ bức tử Dương Th|i Hậu cùng các cung nữ trước kia.

Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt vốn tên là Ngô Tuấn, tự l{ Thường Kiệt, quê ở làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ X|, Gia L}m, H{ Nội). Từ nhỏ ông đã ham chuộng cả văn lẫn võ, thích đọc sách và tập luyện võ nghệ. Năm 20 tuổi, ông được bổ làm một chức quan nhỏ trong đội k?binh. Sau theo lời khuyên của vua Lý Thái Tông, ông tự hoạn để vào làm quan trong cung. Ông được thăng dần lên đến chức Đô tri nội thị sảnh, trông coi mọi việc trong cung vua. Đến năm 1069, ông được cử l{m Đại tướng theo vua Lý Thánh

Tông tiến công Champa. Lý Thường Kiệt bắt được Chế Củ trong dịp này khi tiến qu}n đến tận biên giới Chân Lạp (vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay). Chiến thắng trở về, ông được phong làm Phụ quốc Th|i phó, tước Khai quốc công v{ được vua Lý nhận làm con nuôi, vì thế ông đổi sang họ Lý v{ có tên l{ Lý Thường Kiệt.

Năm 1072, Lý Th|nh Tông mất, Thái tử C{n Đức (7 tuổi, con của ỷ Lan Nguyên phi) lên nối ngôi, tức là Lý Nhân Tông, Thái hậu Thượng Dương cùng Th|i sư Lý Đạo Thành là phụ chính nhưng Lý Thường Kiệt giúp ỷ Lan (đ~ trở thành Linh Nhân Thái hậu) truất quyền phụ chính của Thái hậu Thượng Dương, gi|ng Lý Đạo Thành xuống làm Tả gián nghị Đại phu v{ đổi đi trấn nhậm ở Nghệ An. ỷ Lan lên làm Phụ chính còn Lý Thường Kiệt làm Tể tướng.

Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Tống đang gặp khó khăn về mọi mặt. Tể tưởng của nhà Tống l{ Vương An Thạch đưa ra T}n ph|p để giải quyết những bế tắc của Trung Quốc. Một trong những biện pháp của T}n ph|p Vương An Thạch là phải tạo nên uy danh cho nhà Tống bằng c|ch b{nh trướng xuống phía Nam, x}m lăng Đại Việt. Do vậy nhà Tống cho tích trữ lương thảo, quân dụng tại các thành Ung Châu (Quảng Tây), Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông) để chuẩn bị cho cuộc xâm lăng. Trước tình thế đó Lý Thường Kiệt chủ trương như sau: "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem qu}n ra đ|nh trước để chặn mũi nhọn của giặc". Trước hết để củng cố nội bộ, ông đề nghị cùng ỷ Lan mời Lý Đạo Thành về lại triều đình giữ chức Thái phó trông coi việc triều chính. Trước họa nước, Lý Đạo Thành hợp lực cùng Lý Thường Kiệt tích cực chuẩn bị việc đối phó.

Cuối năm 1075, Lý Thường Kiệt đem 10 vạn quân tiến sang đất Tống đ|nh v{o Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu. Sau 42 ngày vây hãm quân Việt chiếm được thành Ung Châu. Sau khi phá hủy phần lớn căn cứ hậu cần của quân Tống, tháng 4.1076, Lý Thường Kiệt cho rút quân về. Cuối năm ấy, nhà Tống cử tướng Quách Quỳ đem 30 vạn qu}n theo hai đường thủy bộ sang x}m lược Đại Việt. Lý Thường Kiệt cho lập phòng tuyến kiên cố dọc theo sông Như Nguyệt để chặn địch. Đồng thời ông cũng cho qu}n đón đ|nh thủy binh địch v{ đ~ ngăn được hai cánh quân thủy bộ của địch phối hợp với nhau. Trên phòng tuyến Như Nguyệt, chiến trận diễn ra ác liệt. Để cổ vũ qu}n sĩ, ông l{m nên b{i thơ v{ cho người đêm khuya v{o đền thờ Trương H|t ở bờ Nam sông Như Nguyệt giả thần nh}n đọc vang lên:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời

Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)

Nhờ thế tinh thần qu}n sĩ thêm hăng h|i. Sau hơn ba th|ng đ|nh không thắng lực lượng bộ binh, không thể sang sông vì thiếu thủy binh hỗ trợ, quân Tống bị chết mất quá nửa lại thêm bệnh tật đe dọa, Quách Quỳ lâm vào thế quẫn b|ch. Lý Thường Kiệt chủ động đề nghị hòa để mở lối tho|t cho qu}n địch nhằm sớm chấm dứt chiến tranh. Đến th|ng ba năm 1077 Qu|ch Quỳ rút quân về nước. Từ đấy quân Tống từ bỏ ý định x}m lược Đại Việt.

Một phần của tài liệu Lịch sử việt nam từ nguồn gốc đến năm 1884 (Trang 54 - 57)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(191 trang)