Lao động với phát triển kinh tế

Một phần của tài liệu ĐỀ CƯƠNG bài GIẢNG KINH tế PHÁT TRIỂN (Trang 32 - 35)

Bài 4: CÁC NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN KINH TẾ

4.1. Lao động với phát triển kinh tế

4.1.1. Khái niệm.

Nguồn lao động được thể hiện hai mặt: số lượng và chất lượng.

- Số lượng: gồm những người trong độ tuổi và trên độ tuổi lao động có tham gia lao động trong các ngành kinh tế (tức đang có việc làm) và còn bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có nhu cầu về việc làm nhưng còn đang đi học, làm nội trợ, hay thất nghiệp...

Độ tuổi lao động ở các quốc gia có thể khác nhau, ở Việt Nam Bộ Luật lao động năm 2002 thì độ tuổi lao động 15 đến 60 đối với nam và 15 đến 55 đối với nữ.

Bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mới phản ánh khả năng lao động của nền kinh tế. Nhưng không phải tất cả những người trong độ tuổi đều là những người tham gia lực lượng lao động. Vì vậy, cung lao động sẽ phụ thuộc chủ yếu vào số lượng dân số trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.

- Chất lượng: thể hiện ở khả năng làm việc của người lao động thông qua số sản phẩm đạt được trong một đơn vị thời gian lao động nhất định (tức năng suất lao động).

Chất lượng lao động phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, tay nghề, sức khỏe của người lao động tốt tạo năng suất cao, tức thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này lại phụ thuộc vào các hoạt động của giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe... do đó, chất lượng nguồn lao động nâng lên là nhờ vào quá trình đầu tư cho các hoạt động này. Cho thấy chất lượng nguồn lao động không phải là yếu tố tự có mà nó biến đổi cùng với quá trình phát triển kinh tế, chúng được xem là nguyên nhân và kết quả của quá trình phát triển kinh tế.

4.1.2. Vai trò.

- Lao động là yếu tố chủ động của quá trình sản xuất.

Lao động là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Hơn nữa, là yếu tố chủ động của quá trình phối hợp các nguồn lực đầu vào.

- Lao động vừa là nguồn lực sản xuất chính vừa là người hưởng lợi ích của sự phát triển.

Trước hết, lao động là nguồn lực sản xuất chính vì nó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong phát triển kinh tế. Mặt khác, lao động là một bộ phận của dân số, cũng là những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Vì phát triển kinh tế suy cho cùng là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.

- Lao động là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.

4.1.3. Đặc điểm.

(1) Lực lượng lao động tăng nhanh.

Một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển chính là số lượng lao động gia tăng rất nhanh.

Việt Nam từ 1945 đến nay quy mô dân số tăng gấp 3 lần. Hiện nay chuyển sang giai đoạn giảm dần, tốc độ là 2%.

Năm 2002, dân số trên 79,5 triệu người và lực lượng lao động Việt Nam có 40,7 triệu người.

(2) Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.

Đặc điểm về lao động của các nước đang phát triển là đa số lao động làm việc ở khu vực nông nghiệp.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động là tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm dần, tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ tăng dần. Mức độ nhanh hay chậm tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi quốc gia.

Trong năm 2002, Việt Nam có tỷ lệ lao động khu vực nông nghiệp là 61%, công nghiệp 15%, dịch vụ 24%.

(3) Hầu hết người lao động được trả lương thấp.

+ Do số lượng lao động ngày càng tăng do nguồn cung lao động dồi dào.

+ Trình độ chuyên môn của người lao động còn thấp, thu nhập thấp.

(4) Thu nhập của lao động có trình độ tay nghề và lao động không lành nghề còn có sự chênh lệch lớn hơn so với các nước phát triển.

Các nước phát triển mức chênh lệch giữa thu nhập của lao động có trình độ tay nghề và lao động không lành nghề từ 20 đến 40%. Trong khi ở các nước đang phát triển, Châu Á là 40-80%, Mỹ La tinh 70-100%. Nguyên nhân chủ yếu do lao động có trình độ tay nghề thấp.

(5) Còn bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng.

Trong các nước đang phát triển còn tồn tại một số lượng lớn lao động chưa sử dụng hết, thường tồn tại dưới dạng thất nghiệp trá hình và bán thất nghiệp.

Thất nghiệp trá hình thường hiện diện ở khu vực thành thị, tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như: làm việc năng suất thấp, thu nhập chỉ đủ sống cho bản thân.

Bán thất nghiệp hiện diện khu vực nông thôn, tồn tại dưới hình thức thiếu việc làm (có việc làm nhưng số ngày làm việc ít), mức độ thiếu việc làm khi hết thời vụ.

4.1.4. Cơ cấu thị trường lao động.

Thị trường lao động ở các nước đang phát triển được chia thành 3 khu vực:

a. Khu vực thành thị chính thức.

Lao động làm việc ở các tổ chức kinh doanh lớn của chính phủ và tư nhân như ngân hàng, công ty, nhà máy, siêu thị... người lao động luôn chờ cơ hội để làm việc ở khu vực này. Khu vực này trả lương cao (mức W1 cao hơn mức lương cân bằng W0) và làm việc ổn định nhất, thị trường này tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn cao. Vì vậy ở thị trường này luôn có người chờ việc làm (L1, L2).

Lao động làm việc ở các tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ vừa và nhỏ, bán hàng rong, dịch vụ bên lề đường... khu vực này thu hút những người di cư từ nông thôn lên thành thị, ít vốn, kém trình độ nên khối lượng việc làm được tạo ra nhiều hơn so với khu vực khác. Tuy mức tiền lương thấp hơn khu vực chính thức nhưng vẫn hấp dẫn hơn cho nhiều người khi không thể gia nhập được vào khu vực chính thức (mức cân bằng W2 <

W1).

c. Khu vực nông thôn.

Lao động khu vực này chủ yếu là lao động tạo ra thu nhập cho gia đình của mình tức thiếu sự trao đổi. Tuy nhiên, vẫn tồn tại thị trường lao động làm thuê theo thời vụ trong nông nghiệp hoặc các hoạt động phi nông nghiệp như buôn bán, ngành nghề thủ công. Tiền lương xác định ở mức cân bằng W3 thấp hơn mức cân bằng ở khu vực thành thị không chính thức W2.

Một phần của tài liệu ĐỀ CƯƠNG bài GIẢNG KINH tế PHÁT TRIỂN (Trang 32 - 35)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(78 trang)
w