Chính sách tài chính với phát triển kinh tế

Một phần của tài liệu ĐỀ CƯƠNG bài GIẢNG KINH tế PHÁT TRIỂN (Trang 63 - 70)

Bài 5: CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ

5.4. Chính sách tài chính với phát triển kinh tế

5.4.1. Nội dung chính sách tài chính quốc gia.

- Hệ thống tài chính quốc gia.

Hệ thống tài chính quốc gia là tổng thể những bộ phận hợp thành một cơ cấu tài chính, những bộ phận này tuy có sự độc lập tương đối về mặt tài chính, nhưng chúng tác động qua lại lẫn nhau và hỗ trợ cho nhau trong toàn bộ sự vận động tài chính của nền kinh tế, bao gồm :

+ Ngân sách Nhà nước: là bộ phận tài chính tập trung lớn nhất của hệ thống tài chính quốc gia.

+ Tài chính doanh nghiệp: là những quan hệ tài chính phục vụ cho quá trình sản xuất - kinh doanh.

+ Tài chính hộ gia đình: là quan hệ tài chính trực tiếp đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần và các nhu cầu xã hội cho các tầng lớp dân cư.

+ Tài chính đối ngoại: trong xu thế quốc tế hóa về kinh tế hiện nay. Hệ thống tài chính cũng được coi là một hệ thống mở với những quan hệ tài chính đối ngoại phong phú (quản lý nhà nước về tài chính đối với các nguồn viện trợ, tài trợ quốc tế cho chính phủ; các khoản tài trợ, viện trợ của chính phủ cho nước ngoài)

+ Tài chính trung gian: là các tổ chức tài chính đóng vai trò cầu nối, thực hiện việc trung chuyển các nguồn tài chính (trung gian tài chính thường là một tổ chức trung gian cho kênh luân chuyển vốn giữa người cho vay và người đi vay. Tức là, người gởi chuyển tiền vốn cho tổ chức này (ví dụ như ngân hàng hay tín dụng tập thể, công ty bảo hiểm, công ty tài chính) và nó sẽ chuyển tiền vốn này cho bên vay/chi tiêu)

- Nội dung chính sách tài chính quốc gia.

Qua hệ thống tài chính cho thấy các quan hệ tài chính có tác động toàn diện đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội ở tầm vi mô và vĩ mô của đất nước, do đó Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp về tài chính trong từng thời kỳ nhất định để định hướng hoạt động cho các quan hệ tài chính.

Chính sách tài chính quốc gia là bộ phận của chính sách kinh tế, nó sử dụng tổng thể các công cụ của hệ thống tài chính nhằm khai thác, động viên và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của đất nước phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Để đạt được hiệu quả cao trong định hướng hoạt động tài chính, chính sách tài chính quốc gia bao gồm các chính sách tài chính bộ phận. Do đó nội dung chính sách tài chính quốc gia bao gồm các chính sách cơ bản sau:

+ Chính sách huy động và sử dụng vốn: để đảm bảo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, Chính phủ cần đưa ra các định hướng huy động vốn đầu tư trong nước, ngoài nước và định hướng sử dụng vốn hợp lý, có hiệu quả.

+ Chính sách tài chính doanh nghiệp: đối với doanh nghiệp, chính sách tài chính của Nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ,

tăng quy mô vốn đầu tư, nhanh chóng đổi mới công nghệ, nhằm từng bước nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

+ Chính sách tài khóa: trong hệ thông tài chính quốc gia, ngân sách nhà nước có vị trí quan trọng đặc biệt, hoạt động quản lý kinh tế-xã hội của Nhà nước phụ thuộc vào khả năng và hiệu quả hoạt động của ngân sách.

+ Chính sách tiền tệ: là bộ phận rất quan trọng của chính sách tài chính quốc gia. Trong chính sách này, Nhà nước cần hướng vào sử dụng các công cụ trực tiếp và gián tiếp tác động vào thị trường tiền tệ, qua đó tác động vào hoạt động kinh tế.

+ Chính sách tài chính đối ngoại: thông qua chính sách này, Nhà nước định hướng việc mở rộng các quan hệ tài chính với nước ngoài, sử dụng hiệu quả nguồn vốn này để phát triển kinh tế và cải thiện các điều kiện xã hội.

Trong những chính sách trên đây, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là những chính sách bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống chính sách tài chính quốc gia. Những chính sách này được coi là chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ. Thông qua chính sách này, Chính phủ tác động đến thị trường tiền tệ và qua đó tác động đến hoạt động kinh tế của đất nước.

5.4.2. Chính sách tài khóa.

- Chính sách thuế.

Nguồn thu của ngân sách bao gồm các khoản: Thuế, phí - lệ phí (Việt Nam có thu từ dầu thô) thu từ bán - cho thuê đất đai, tài sản và các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, thu từ tiền lãi của các tài sản có sinh lời của Nhà nước mang lại, các khoản vay, viện trợ của nước ngoài.

Trong các nguồn thu trên thì thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách.

Ở Việt Nam hiện nay có các loại thuế: Thuế môn bài; Thuế giá trị gia tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế xuất - nhập khẩu; Thuế thu nhập của doanh nghiệp; Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Thuế nhà, đất; Thuế tài nguyên, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.

- Chi tiêu của ngân sách.

+ Chi đầu tư phát triển.

+ Chi thường xuyên: chi quản lý hành chính; chi văn hóa, giáo dục, y tế;

chi quốc phòng; chi trợ cấp.

+ Chi dự trữ, trả lãi suất các khoản tiền vay và trả nợ: Chi dự trữ là khoản chi nhằm mục đích điều chỉnh hoạt động thị trường, ổn định giá cả và phòng ngừa những rủi ro xảy ra đối với nền kinh tế. Dự trữ quốc gia bao gồm dự trữ bằng tiền, ngoại tệ, kim loại quý và các loại hàng hóa cần thiết. Chi trả nợ là khoản chi trả lãi suất tiền vay và thanh toán nợ gốc.

- Xử lý bội chi ngân sách.

Để xử lý bội chi ngân sách, các biện pháp thường được áp dụng là: phát hành tiền, vay trong nước, vay nước ngoài.

5.4.3. Chính sách tiền tệ.

a. Chính sách cung ứng tiền tệ.

Việc xác định khối lượng tiền cần đưa thêm vào lưu thông là một nhiệm vụ quan trọng của ngân hàng Nhà nước. Khối lượng tiền này phụ thuộc:

tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ lưu thông tiền tệ, tỷ lệ lạm phát dự kiến. Mối quan hệ này thể hiện:

M = (PxQ)/V Trong đó

M: lượng cung ứng tiền tệ P: mức giá binh quân Q: tổng sản lượng

V: tốc độ lưu thông tiền tệ

Lượng cung ứng tiền cần thiết cho lưu thông bao gồm:

M1 = Tiền mặt lưu thông ngoài ngân hàng + Các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng

M2 = M1 + Các khoản tiền gửi có kỳ hạn tại ngân hàng b. Chính sách điều tiết lượng tiền tệ trong lưu thông.

+ Nghiệp vụ thị trường mở: Là nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá do NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ 

+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ tối thiểu giữa lượng tiền phải dự trữ so với tổng số tiền huy động mà Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại phải duy trì.

+ Lãi suất chiết khấu: là lãi suất NHNN tính với các ngân hàng thương mại khi các ngân hàng thương mại đến vay để bảo đảm khả năng thanh toán c. Chính sách tín dụng.

Tín dụng là hình thức quan hệ tiền tệ dùng để huy động và sử dụng những vốn bằng tiền tạm thời nhàn rỗi của nhân dân, của các tổ chức kinh tế, các công ty và vốn của ngân sách nhà nước.

Chính sách tín dụng là những biện pháp của Nhà nước để quản lý hoạt động kinh doanh tiền tệ và sử dụng công cụ lãi suất tín dụng để tác động vào thị trường tiền tệ.

Lãi suất tín dụng được coi là giá cả của tài sản tài chính, đó là giá mà người sử dụng vốn tiền tệ phải trả cho người sở hữu khi nhận được quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định.

Lãi suất tín dụng không chỉ là giá cả kinh doanh của các tổ chức tín dụng mà còn là công cụ để Nhà nước tác động vào cung - cầu trên thị trường tiền tệ. Tuỳ theo tình hình cụ thể và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ mà có phương thức quản lý lãi suất khác nhau:

+ Quản lý lãi suất theo phương thức trực tiếp, theo đó Ngân hàng Nhà nước qui định trực tiếp lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay.

+ Quản lý theo phương thức gián tiếp: Ngân hàng Nhà nước qui định lãi suất cơ bản, theo đó các tổ chức tín dụng tự ấn đinh lãi suất trong khung quy định.

+ Thả nổi lãi suất: Do lãi suất là giá bán và giá mua của tài sản tài chính, với quan điểm cho rằng đã là giá cả thì lãi suất phải được biến động theo cung - cầu về vốn trên thị trường.

Về nguyên tắc, lãi suất huy động phải đảm bảo bù đắp được sự mất giá do lạm phát và lợi nhuận thích đáng cho người gửi, có nghĩa là:

Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát

Lãi suất cho vay bao gồm lãi suất huy động, các khoản chi phí và lợi nhuận của tổ chức tín dung:

Lãi suất thực tế = Lãi suất huy động + Các khoản chi phí + Lợi nhuận định mức.

Các khoản chi phí thường là:

- Thuế dự phòng (nếu có);

- Dự phòng rủi ro;

- Dự trữ bắt buộc;

- Chi phí hoạt động.

d. Chính sách quản lý ngoại hối.

+ Chính sách hối đoái: nhiều nước thực hiện chính sách độc quyền hối đoái, cấm lưu hành tiền nước ngoài trên đất nước mình, chính sách ngoại hối hướng vào việc ngăn chặn hành vi tích trữ ngoại tệ trong các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình và quản lý việc mua bán ngoại tệ.

+ Dự trữ ngoại tệ: mỗi nước đều có nhu cầu dự trữ ngoại tệ, tùy theo khả năng của nền kinh tế.

+ Tỷ giá hối đoái: là tỷ lệ chuyển đổi đơn vị tiền tệ của một nước ra những đơn vị tiền tệ của nước khác, nó phản ánh giá trị của đồng tiền trong từng thời kỳ nhất định.

5.4.4. Chính sách tài khóa- tiền tệ với phát triển kinh tế.

a. Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.

+ Công cụ thuế tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn kiểm soát và hướng dẫn hoạt động kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ngành và theo vùng lãnh thổ.

+ Chi tiêu của ngân sách. Chi của ngân sách cho đầu tư phát triển nhằm xây dựng và mở rộng các cơ sở hạ tầng, hệ thống điện nước, thủy lợi, năng lượng, giao thông vận tải, bưu điện... và một số công trình kinh tế mũi nhọn sẽ trở thành động lực thúc đẩy sự ra đời của các cơ sở kinh tế khác của tư nhân hoặc đầu tư nước ngoài.

+ Công cụ lãi suất và tỷ giá. Lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng có tác động đến việc thu hút các khoản tiền tiết kiệm, tạo nguồn vốn cho

đầu tư. Do đó để tăng vốn đầu tư phát triển sản xuất cần xác định lãi suất thích hợp. Việc xác định tỷ giá lại có tác động đến hoạt động xuất - nhập khẩu.

b. Ổn định kinh tế vĩ mô.

Chính phủ các nước thực hiện ổn định kinh tế bằng cách sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ và giá cả để chống lạm phát, thất nghiệp và ổn định giá cả.

Đứng trước tình trạng giá cả ngày càng tăng và mức thất nghiệp cao, phần lớn các nước thực thi các chính sách gồm:

- Giảm bớt lượng cung tiền và tăng lãi suất.

- Giảm chi tiêu của chính phủ.

- Tăng thuế, đặc biệt là thuế thu nhập đối với những nhóm có mức thu nhập trung bình và cao.

- Đưa ra các chính sách chỉ đạo về lương và giá nhằm cố gắng giảm bớt mức tăng của chi phí và giá cả.

- Điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo hướng cố gắng giảm bớt chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu và giảm giá hàng tiêu dùng trong nước.

Trong trường hợp ngược lại, khi nền kinh tế trong tình trạng giảm phát, chính sách tài chính được sử dụng theo hướng “kích cầu”.

c. Thực hiện công bằng xã hội.

Nhà nước góp phần thực hiện công bằng xã hội bằng các biện pháp giảm bớt sự bât bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng kinh tế.

Bên cạnh giải pháp chi ngân sách, chính sách thuế với mức động viên hợp lý giữa các ngành nghề, giữa các thành phần kinh tế, giữa các tổ chức, đồng thời thông qua thuế suất, biểu thuế, chính sách miễn giảm thuế làm cho chính sách thuế trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước để điều tiết và phân phối lại một cách thỏa đáng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.

Việc thực hiện chính sách lãi suất cho vay ưu đãi đối với các hộ nghèo, khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đã tạo cơ hội cho người dân

ở các vùng này phát triển kinh tế, giảm bớt sự chênh lệch về mức sống của dân cư giữa các vùng.

Một phần của tài liệu ĐỀ CƯƠNG bài GIẢNG KINH tế PHÁT TRIỂN (Trang 63 - 70)

Tải bản đầy đủ (DOCX)

(78 trang)
w