Sự KHU BIỆT VỎI VĂN HOÁ TRUNG HOA VẰ ẤN ĐỘ

Một phần của tài liệu Văn hóa việt nam trong bối cảnh đông nam á (Trang 20 - 40)

1. Xem Phạm Đưc Dương. Southeast Asian Culture Unity in Diversity Phan Ngọc. On the Community o f Southeast Asian Culture.

Trong sách: Unity in diversity cooperation between Vietnam and other Southeast Asian countries. NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1992 tr.47.

23

của các cư dân thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa nưóc, với ba yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển, trong đó yếu tố đồng bằng tuy có sau, nhưng lại đóng vai trò chủ đạo. Lịch sử ỏ đây đã diễn ra những quá trình phân tán - hội tụ, dẫn đến những phức thể văn hoá mói chung cho toàn vùng, bước hội tụ sau cao hơn bước hội tụ trước, đồng thòi cũng để lại nhiều sắc thái khác nhau có tính dân tộc hoặc mang dấu ấn địa phương. Vì vậy một đặc trưng nổi bật của văn hoá Đông Nam Á, nói theo thành ngữ của người Indonesia là "bhinneka tunggal ika"

(thống nhất trong đa dạng)1, và, quá trình hội tụ bắt nguồn từ nhiều trung tâm khác nhau, cho nên nó không mang tính đơn tuyến trong sự biệt lập mà mang tính đa tuyến trong sự tiếp xúc đan xen nhiều chiều, tạo nên những đưồng đồng quy, những cấu trúc văn hoá - tộc người đa thành phần được vận hành theo những cơ chế linh hoạt mà đồng nhất. Kết quả là tính đa dạng ngày càng mỏ rộng trong không gian, tính đồng nhất được tiềm ẩn sâu trong thòi gian, và sự tác động qua lại giữa chúng trỏ thành một cơ chế tổng hợp quy định sự phát trien cua mỗi nước và của cả khu vực.

Tuy nhiên để nhận diện được nền văn hoá Đông Nam Ắ. chứnpr tn -V í; ết hai vấn đề thuộc vê' nhận thức

i váp tiếp cận.

1 - Tác giả của câu chăm ngôn trên là Mpu Tantuỉar, nhà văn, nhà thơ cung đình của Vương triều Mójópahít thế kỷ X1U-XIV. Câu châm ngôn trên ngày nay được ghi ưên Quốc huy của nước Cộng hoà Indonesia.

24

Một là, các học giả phương Tây một thòi đã coi Đông Nam Á không phải là một thực thể vân hoá mà là vùng ngoại vi tiếp giáp của hai nền văn minh lớn ỏ châu Á. Đó là Trung Hoa và Ân Độ. Vì vậy họ đặt cho chúng ta cái tên ghép:

Indo-Chine (Ấn) (Hoa)

Ngay cả khi đặt chân lên vùng quần đảo Nam Dương họ vẫn tưỏng đó là những đảo của Ân Độ nên mới gọi là

Indo-nesia (Ấn) (Đảo)

Nhận thức này đã thống trị gần hai thế kỷ. Các học giả Pháp, Anh và phương Tây đinh ninh là như vậy, cho nên các công trình nghiên cứu của họ, dù có những cứ liệu trên thực địa không mấy ủng hộ quan điểm trên, nhưng cuối cùng họ vẫn coi đây là vùng Ân Độ hoá và Trung Hoa hoá.

Người Ấn Độ mặc nhiên coi Đông Nam Á là thuộc nền văn hoá của họ; cũng vậy, người Trung Quốc coi Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản là thuộc văn hoá Hán.

Hai là, quả thật các nước Đông Nam Á, trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với An Độ và Trung Hoa đã tiếp nhận rất sâu sắc ảnh hưỏng của hai nền văn hoá trên, đặc biệt khi người Đông Nam Á xây dựng các quốc gia cổ đại của mình, họ đã mô phỏng thể chế và nền từ chương học Trung Hoa và Ân Độ. Vì vậy muốn tiếp cận vối nền văn

hoá Đông Nam Á, chúng ta phải bóc tách các ảnh hưồng của các ýếu tố ngoại lai. Điều này không phải dễ. Chỉ cần một thí dụ: ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, công cụ của tư duy, là đặc trưng tộc ngưòi. Thế mà trong tiêng Việt có tới 60% là từ Hán được vay mượn. Ta có thể nói một câu tiếng Việt hoàn toàn nhưng không có một từ thuần Việt nào, ví dụ: "Ban giám hiệu trưòng Đại học Tổng hợp Hà Nội yêu cầu khoa Lịch sử, khoa Ngữ văn nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị tăng cường chất lượng đào tạo do Bộ Giáo dục ban hành!". Chả thế mà cụ Phan Bội Châu có thể nói chuyện bằng bút (bút đàm) với các chí sĩ yêu nước Trung Quốc, Nhật Bản. Giống như các nhà sư Lào, Thái Lan, Campuchia có thể nói chuyện vói nhau bằng những từ mà họ cùng mượn của tiếng Pali, Sanscrit.

Do đó, để nhận diện được nền văn hoá Đông Nam A khu biệt vối Trung Hoa và Ấn Độ, chúng ta cần có một cái nhìn đại thể về hai nền văn hoá này.

Phải nói rằng, hai nền văn minh Trung Hoa và An Độ đã bao chứa trong nó những mô hình nguyên gốc của thê giới loài người (nông nghiệp và du mục). Vì vậy người ta gọi An Độ và Trung Hoa là những thế giới! c ả hai nền văn minh đó đều được cấu thành bỏi ba yếu tố:

A ìn nông nghiệp khô.

- Văn hoá của cư dân du mục.

- Văn hoá của cư dân lúa nưóc.

26

Mặc dù vậy, hai nền văn minh này có sự khu biệt rất cơ bản do phẩm chất của từng yếu tố và nhất là do cấu trúc và mối quan hệ giữa các yếu tố tạo nên đặc trưng riêng của mỗi thế giới: thế giới của quân tử và tiều nhân (Trung Hoa); thếgiới của thầy tu và vũ nữ (An Độ).

Nền văn minh Trung Hoa mang đậm bản sắc châu Á, là một tổng hợp của văn hoá cư dân nông nghiệp khô thâm canh (trồng kê mạch) vùng trung nguyên lưu vực sông Hoàng Hà, đã hỗn dung với ván hoá của cư dân du mục phía Bắc và Tây Bắc (rợ Khuyển, Nhung), sau đó là với văn hoá của cư dân nông nghiệp lúa nưóc Đông Nam Á tiền sử (vùng Hoa Nam vối những trung tâm Ba Thục, Kinh Sỏ, Ngô Việt). Kết thúc cuộc "Hán - sỏ tranh hừng"

nhà Hán đã thống nhất nước Trung Hoa từ Bắc xuống Nam (tiền Bắc hậu Nam) trong đó cư dân nông nghiệp khô - người Hán, đóng vai trò chủ thể, và, sau đó phát triển đất nước theo một trật tự ngược lại: tiền Nam, hậu Bắc.

Văn minh Trung Hoa được xem như là một bình chứa. Nhờ khả năng tổng hợp và quy phạm hoá thành văn bản mà ngưòi Hán đã đồng hoá các dân tộc khác bằng sức mạnh văn hoá kể cả những dân tộc "ngoại di" đã thống trị họ (Mông Cổ, Mãn Thanh). Nền văn minh ấy có lúc thịnh lúc suy, nhưng nó trưòng tồn cùng vói lịch sử Trung Hoa không bao giờ tắt, khác vói các nền văn minh khác trên thế giối có một thời rực sáng rồi một thời biến mất.

Vói triết lý thực dụng và duy ý chí, người Hán tập trung vào chính trị - xã hội tạo nên một thể chế chặt chẽ

dựa trên chế độ tông tộc và ý thức hệ Nho giáo. Đây là điển hình cho đế chế phương Đông cổ đại, tập trung trên hai bình diện:

- Một nến văn hiến ngôn từ đồ sộ, trưòng tồn dựa trên chữ viết, sử, sách thánh hiền vói những "bách gia chư tử"

và được truyền đạt bằng con đường giáo dục. Nho giáo do Khổng Tử sáng lập là học thuyết đề cao sự học và sự nghiệp giáo dục nhằm đào tạo những lớp người "quân tử"

với phương châm "tiên học lễ, hậu học văn". Văn là để hiểu biết sâu rộng, lễ là để ứng xử đúng phép tắc. Với chế độ

"học quan" nghiêm túc, thể chế Trung Hoa đã đào tạo và tuyển lựa một đội ngũ quản lý mẫu mực. Khổng Tử là người thầy giáo vĩ đại dạy học không biết mệt mỏi. Theo quan niệm của Nho giáo "dạy tốt hơn cai trị tốt" (Mạnh Tử).

- Một nền chính trị - xã hội nhất quán trên một tôn ti trật tự bất biến của chế độ đẳng cấp theo tông pháp, một chế độ vương quyền không dựa vào thần quyền mà theo nguyên tắc gia trưỏng phụ quyền cha truyền con nối và một lối ứng xử theo thuyết "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Gia đình của ngưòi Hán là đại gia đình (tính đến cửu tộc) được mở rộng ra ngoài xã hội. Mỗi hương (làng) là một họ được quản lý dựa trên trật tự bất biến của tông tôc. thâm chí không có tên mà chỉ thuộc về một

-, Nguỵ... và sau này là Đại Hán, Đại Đường, Đại Tống...). Vì vậy ỏ Trung Quốc người ta gọi là quốc gia (ta dịch là nhà nước) chứ không phải "làng nưóc"

như ta.

28

Nền văn minh Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại không ít những phát minh lớn trong khoa học kỹ thuật Ga bàn, nghề làm giấy, nghề in, thuốc sứng...) và nhất là trong đời sống văn hoá với quan niệm "văn dĩ tải đạo". Đạo là của trời. Lẽ trời và lòng người tạo nên nguyên lý ứng xử của con người với tự nhiên và xã hội mà "văn" là phương tiện chuyển tải.

Nền nghệ thuật ngôn từ Trung Hoa mà công cụ là chữ viết đã ghi lại lịch sử và mọi tri thức thành những pho sách - một di sản văn hiến ít có dân tộc nào trên thế giói sánh kịp.

Văn hoá Trung Hoa cũng quan tâm đến nghệ thuật phi ngôn từ (nghệ thuật tạo hình) nhưng so với nghệ thuật ngôn từ thì không tương ứng. Ngay hội hoạ được thế giói xem là nghệ thuật tạo hình, thì với người Trung Quốc vẽ cũng chỉ là viết, dùng bút lông mực đen vẽ trên giấy trắng.

Do đó, tranh Trung Quốc không có màu. Trắng đen không phải là mầu. Sắc độ của mầu đen cho phép ngưòi ta tìm mối quan hệ. Pháp thuật vẽ là công bút - giống như luyện viết. Vẽ một nét thành tranh. Người Trung Quốc ngắm đến nhập tâm cái anh ta định vẽ, rồi cũng như viết văn, anh ta vẽ cái trong đậu anh ta. Cái được vẽ chỉ là một khoảnh khắc (cái hữu) để khẳng định sự tồn tại của cái trống không (cái vô) theo nguyên tắc nghệ thuật Trung Hoa: lấy vô thắng hữu, lấy quan hệ thắng bản thể, lấy tổng thể thắng đơn lẻ. Do đó nhan đề bức tranh mới quan trọng.

Chữ viết Trung Quốc ra đời rất sớm (giáp cốt tự và bốc tự) gắn liền vói tín ngưỡng dân gian - chữ thiêng, chữ thánh hiền! Vì vậy Trung Quốc không những dùng chữ viết để ghi thời có sử mà còn ghi cả thời kỳ huyền thoại - tức là lịch sử hoá huyền thoại.

Chữ viết được ghi theo ý cho nên nó chứa đựng những ý niệm của người xưa mà ngày nay chúng ta có thể "giải mã" theo lối chiết tự. Ví như chữ ^ (quân) gồm 2 yếu tố:

Ỹ' (doãn = lệnh) chữ tượng hình của cái cung 3 • và thanh kiếm )a (khẩu = miệng). Điều đó có nghĩa:

quân là người ra lệnh mà lệnh này dựa trên sức mạnh vũ khí. Bây giờ chúng ta mới hiểu vì sao Nguyễn Trãi đẵ dùng 8 chữ người ta nói về Hán Vũ Đế để nói lên tính cách của kẻ xâm lược phong kiến phương Bắc: "Hiếu đại" (thích lớn), "hì công" (vui với chiến công), "cùng binh" (dùng binh đến cùng), "độc vũ" (chỉ ưa dùng vũ lực)! Như trên đã nói, nền văn hoá Trung Hoa xưa quan tâm đến xã hội, ít quan tâm đến đời sống tâm linh (vói Khổng Tử quỷ thần chỉ là

"kính nhi viễn chi"), quản lý xã hội bằng vương quyền nên dùng chữ viết và ngôn từ để thể chế hoá mọi mặt của đòi sống xã hội và ít dùng nghệ thuật phi ngôn từ để thể hiện th ế giới tâm linh.

---- -m moa học thì các nước chịu ảnh hưỏng coa van noá Trung Hoa truyền thống đều có những mối liên hệ "đồng văn", ở đó sự thống nhất quốc gia là do yêu cầu chính trị - văn hoá chứ không phải là thị trưòng, xã 30

hội coi trọng văn hoá giáo dục, ham mê lịch sử chữ nghĩa văn chương hơn là tài sản, gia thế, chức tưóc và bình thành một đạo lý sống có "nhân, lễ, nghĩa, trí, tín", một lối ứng xử cộng đồng đầy tinh thần trách nhiệm. Khi bưóc vào hiện đại, các nước này đều chủ trương "đông học vi thể, tây học vi dụng", tạo nên những mô hình -phát triển có hiệu quả trong việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến của phương Tây vồi việc quản lý xã hội phương Đông.

Tuy nhiên quá trình hội tụ của văn hoá Trung Hoa lại diễn ra theo con đưòng "mưu bá đồ vươngrt, áp đặt và đồng hoá bằng vũ lực vói tư tưởng dân tộc lón - đại Hán, nên làm cho các nước láng giềng e ngại. Do đó xu thế chung của toàn vùng Đông Nam Á (trừ Việt Nam) thòi cổ đại không sẵn sàng chấp nhận ảnh hưỏng cùa văn hoá Trung Hoa trên các mặt thể chế chính trị, từ chương học. Trong khi đó và cũng trong các lĩnh vực ấy các cư dân vùng này lại tiếp thu ảnh hưỏng của Ân Độ.

Nếu như nền văn minh Trung Hoa do cư dân nông nghiệp khô làm chủ thể, do đó tính chất trội của văn hoá nông nghiệp (khô và nước) là điều dễ hiểu, thì văn minh An Độ là một phức thể gồm 3 yếu tố: văn hoá nông nghiệp khô trồng lúa mì vùng đồng bằng Ân - Hằng, văn hoá du mục Arian và nông nghiệp lúa nước Đông Nam Á vùng Atssam nhưng lại do ngưòi Arian thống trị; cho nên văn minh Ân Độ đậm chất du mục và mang tính nước đôi nửa Âu nửa Á; tiếng Ân Độ được xếp vào hệ ngôn ngữ Ấn - Âu (Indo-européan). Vì lẽ đó ngưòi Ấn Độ quan tâm nhiều

đến thế giói tâm linh, thế giới thánh thần. Không phải ngẫu nhiên mà trên đất Ân Độ đã sản sinh ra nhiều tôn giáo mang tính th ế giói: Bàlamôn giáo, Phật giáo, Ân Độ giáo. Ngay Hồi giáo của Trung Cận Đông cũng được Ân Độ hoá rồi mới truyền vào Đông Nam Á. Nhò trao đổi với th ế giới Hy Lạp mà nền văn minh đô thị của Ân Độ toả sáng. Với khuynh hướng suy luận trừu tượng, nền văn hoá giầu tính triết học và nhân đạo chủ nghĩa của An Độ đã phát triển rất cao, có sự đóng góp lớn lao trong đời sống văn hoá, đời sống tâm linh và khát vọng hoà bình của nhân loại.

Chúng ta đều biết An Độ là đất của tôn giáo. Do đó người ta phải hữu thể hoá các ý niệm tôn giáo và đòi sống tâm linh bằng các biểu tượng chủ yếu là kiến trúc, điêu khắc và vũ đạo. Do đó nền nghệ thuật tạo hình của Ấn Độ rất phát triển với hai bộ phận chủ yếu: một là, các đền tháp thò thần linh và lăng tẩm thờ vua chúa; hai là, các thành quách, thành phố, dinh thự. Với sức mạnh đồng hoá của mình - một nền văn hoá mỏ, Ấn Độ đã tiếp nhận ảnh hưỏng từ nhiều trung tâm, đặc biệt là ảnh hưỏng của văn hoá Ba Tư (Iran và Trung Á). Sự hội tụ đó đã tạo nên những kiến trúc mà ỏ đó bình thể mang dáng dấp các toà nhà, các khuôn viên Ba Tư, Trvrng Á, nhưng lại sắp -, - ...J lăng tẩm cũng hoành tráng đồ sộ như kiên trúc Tây Iran, nhưng một bên dùng gạch ngói tráng men (Ba Tư), một bên bằng đá cẩm thạch (Ấn Độ).

Ai đã từng đến Ân Độ mà lại không đến thăm lăng Taj 32

Mahal - giấc mơ bằng đá cẩm thạch mà vua Shah Jahan (1627-1665) xây dựng tặng vợ mình! Hoàng hậu Mumtaz Mahal xứng đáng với niềm đam mê to lón của tình yêu, đến nỗi nhà thơ Tagore vĩ đại phải thốt lên: "Một giọt nưốc mắt cô đơn... trên má thời gian". Tại đây màu xạnh bầu trời, màu trắng cẩm thạch, mầu đỗ nhạt sa thạch, mầu

Y A T ì h tươi của khu vưòn như hoà quyện với nhau. Một lâu

đài cẩm thạch in bóng trên hồ nưóc lát đá trắng với hình bóng hai hàng cây bách mảnh mai như những người lính gác nghiêm nghị đượm vẻ buồn đưa tang1.

Nền nghệ thuật phi ngôn từ Ấn Độ vĩ đại là vậy. Còn những di sản ngôn từ không phải nhỏ từ chữ viết, các sách kinh... nhưng so vói nghệ thuật tạo hình thì ít tương ứng - Có lẽ vì thế mà Mác đã gọi Ấn Độ là nước không có lịch sử - tức là lịch sử được ghi bằng văn tự2.

Nền văn hoá Ấn Độ đã lan toả sang Đông Nam Á bằng con đường buôn bán và truyền bá tôn giáo một cách hoà bình. Vì vậy nó được tiếp cận một cách tự nhiên và đã để

1. Xem Abha Khanna. The Golden o f Mughal Architecture, trong tập India Peropectives No. 8/1997, pp. 32-39.

2. Theo Hajime Nakamura trong cuốn Ways o f thingking o f Eastern Peoples: India, China, Tibet, Japan. East - W est Centre Press, Honolulu Hawaii USA, 1996 thì ngưòi An Độ tỏ ra không muốn nhận thức dòng chảy thòi gian từ quá khứ đếh tương lai dưói hình thức một đại lượng chiều dài có thể đo được. Họ không muốn nắm bắt được quan niệm thời gian-về mặt số lượng nên ít sácỊt viết với niên đại chính xác. Đây là một nét đặc biệt của nền văn hoá An Độ. (Dẫn theo Nguyễn Tấn Đắc, mục điểm sách, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á số 2/1992, tr.83).

Một phần của tài liệu Văn hóa việt nam trong bối cảnh đông nam á (Trang 20 - 40)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(388 trang)