VỀ VIỆC TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ ĐÒI SỐNG CỦA

Một phần của tài liệu Văn hóa việt nam trong bối cảnh đông nam á (Trang 40 - 73)

Viện sĩ Liên Xô N.L Vavilov sau khi tiến hành điều tra trên quy mô toàn thế giới về lịch sử thuần hoá cây trồng đã chỉ ra 9 trung tâm, trong đó Đông Nam Á (dưới cái tên là Ẩn Độ - Mã Lai) là một cái nôi phong phú bậc nhất và là nơi thuần dưỡng cây lúa1. Nhà địa lý - thực vật My c.o.

Sauer cho rằng Đông Nam Á là nơi phát sinh trồng trọt sớm vì ỏ đó là một vùng nhiệt đới với tính đa dạng cao về động thực vật cũng như cảnh quan địa mạo sinh thái mà không có một nơi nào sánh kịp2. GS. Từ Chi đã phân chia vùng này thành 5 cảnh quan khác nhau:

Cảnh quan sườn núi dốc vùng núi.

Cảnh quan cao nguyên.

Cảnh quan thung lũng.

Cảnh quan đồng bằng châu thổ.

Cảnh quan duyên hải và đảo.

Tuy cùng nằm trong hệ sinh thái phổ quát và liên hoàn từ núi rừng đến biển cả, nhưng mỗi cảnh quan có một vị thế và sắc thái riêng cho phép con người tuy cùng

1. Vavilov N.L. The origin, Variation. Community and breeding of cultivated plants Selected Writing of N.L. Vavilov. Chronica Botanica, Waltham 13 (1-6), 1951.

2. Sauer, C.O. Agricultural origins and dispersals. Bowonan mémorial Lectures, H, New York, The american Geographical Society, 1952.

làm nông nghiệp lúa nưốc nhưng vẫn có những biện pháp tác động vào môi trưòng khác nhau. Trên sưòn núi cao và cao nguyên thích hợp với nông nghiệp khô (vì không thể giữ nước trong ruộng) nên con ngưòi ỏ đây đã làm rẫy và sống trong mối tương quan giữa rừng - rẫy. Vừng thung lũng vì có những bồn địa được tích tụ bỏi các dòng sông giữa hai cánh núi (ví như lòng chảo Mường Thanh haỵ Mường Luống Phabăng) nên con người vừa làm ruộng, vừa làm rẫy theo kết cấu ruộng - rẫy; vùng đồng bằng châu thổ: ruộng - vườn; vùng duyên hải và đảo: nông - ngư nghiệp.

Thiên nhiên nhiệt đới âm gió mùa đã cung cấp cho con ngưòi Đông Nam Á một tài nguyên phong phú, đa dạng, rất hào phóng nhưng cũng đầy nghịch lý và thách đố đối vối con ngưòi khi họ khai thác tự nhiên vào mục đích canh tác1 . Là một khu vực bán đảo và đảo. Đông Nam Á có đủ núi rừng - đồn** bằ-n** _ V71- Trà ’ ?i những hệ

biệt là nguồn nhiệt - ẩm phong phú (chỉ số khô hạn thấp, xấp xỉ 1) rất thích hợp cho sản xuất sinh khối lớn. Đây là một môi trưòng lý tưỏng cho sự phát triển nông nghiệp vói một sức sống mãnh liệt. Dưới tác động của khí hậu lớp vỏ phong hoá dày đã tạo thành lóp phủ thực vật giầu có, đa dạng, phì phiêu. Hệ sinh thái nhiệt đới ỏ đây rất cực đoan: nhiệt độ cao, nắng gắt, lượng mưa lón tập trung theo mùa, đất

1. Xem Lê Bá Thảo. Thiên nhiên Việt Nam. NXB KHKT, Hà Nội, 1990.

Thái Ngọc Dư (chủ biên). Địa lý các nước vùng Đông Nam Á . Viện đào tạo mở rộng, TP. Hồ Chí Minh, 1993.

44

đai phân bổ dinh dưỡng không đều (80% trên mặt đất, 20% dưới đất), chất hữu cơ được phân huỷ nhanh đều đặn cả năm làm cho đất tơi, có nhiều vi khuẩn hoạt động, giữ được nưóc... Vì thế rừng rất rậm rạp xum xuê nhiều tầng, cây cối quanh năm ra hoa kết trái.

Đối với Đông Nam Á, biển là môi trường truyền thống và là nguồn của cải chưa được khai thác nhiều. Là một biển phụ của Thái Bình Dương bao la, biển Đông là một biển nóng nằm trong vành đai nhiệt đới và tương đối khép

lrín (người ta thưòng gọi là Địa Trung Hải của Thái Bình Dương) cho khu vực này khí hậu hải dương. Vói hai hiện tượng đặc biệt: thuỷ triều và dòng bien, bien Đông đã ảnh hưỏng sâu sắc đến nhịp song cua con người và sinh vật biển. Kỳ lạ thay, những con sông lón chảy trong lòng biển cả đã dắt dẫn những đàn cá đến vói những bãi cá lón1!

Ngoài các khoáng sản, các hoá chât hoà tan trong nưóc, các kết hạch, nhất là các túi dầu có trữ lượng khá, biển Đông có hàng vạn loài thực vật và động vật có giá trị kinh tế cao như cá, tôm, các loài giáp xác, nhuyên thể, rong tảo, san hô đỗ, sam, đồi mồi, răn, chim, thú biền... Các cửa sông nưóc lợ, các cánh rừng ngập mặn vùng duyên hải giầu phù du cho năng suất sinh học cao gấp 20 lần ngoài biển khơi - một. môi trường nuôi trồng hải sản rất lý tưỏng.

Cùng vổi hệ thống sông ngòi chằng chịt nối đất liền với biển cả sự giao lưu bằng đường biển sẽ rất nhộn nhịp. Biển

1. Xem Lê Bá Thảo. Thiên nhiên Việt Nam. NXB KHKT, Hà Nội, 1990, tr.

8-28.

còn thoả mãn nhu cầu du lịch, nghỉ mát, dưỡng bệnh cho con ngưòi. Biết bao cảnh đẹp, bao di tích lịch sù, văn hoá, các kỳ quan nằm ven biển và đảo, biết bao thú vui thể thao diễn ra trên mặt biển mát mẻ, ấm áp dưới bầu trời trong xanh Đông Nam Á.

Khi mà tài nguyên lục địa đang cạn kiệt, hướng ra biển là mục tiêu chiến lược của th ế giới. Khi các ngành công - nông lâm ngư nghiệp biển được phát triển th ì biển Đông sẽ là cứu cánh của chứng ta.

Tuy nhiên môi trưồng ỏ đây cũng rất nghiệt ngã: thiên tai, dịch bệnh. Nhưng thách đố lốn nhất vẫn là đoi tượng phương thức canh tác của con ngưòi. Kinh nghiệm hàng vạn năm làm nông nghiệp của cư dân Đông Nam Á đã chỉ ra răng: hệ sinh thái nông nghiệp ỏ đây đi ngược chiều với hệ sinh thái tự nhiên, do đó sản xuất ỏ Đông Nam Ắ thấp hơn nhiều so với VÙT1P ô n d d v

Uìig lam rảy, làm nương đã làm tổn hại đến lóp phủ thực vật. Nguồn cung cấp hữu cơ thiếu, năng găt đất khô, mưa trực tiếp làm xói mòn lớp phủ phong hoá dẫn đến hiện tượnẹ đất bị lalêrít hoá cằn cỗi.

May măn cho chúng ta còn có những vùng đồng bằng đất phù sa và vùng nham thạch núi lửa mầu mỡ.

Neu như thiên nhiên là một thề liên hoàn từ núi rừng đen bien ca, thì con người vói sự khai thác khác nhau đã tạo nên sự chia răt giả tạo giữa các vùng. Các dân tộc chù thể bao giờ cũng là người chiếm lĩnh đồng bằng và do đó,

46

không có ngoại lệ các quốc gia cổ đại Đông Nam Á đều ra đời d đồng bằng và ven biển, còn các dân tộc ít ngừòi không phải chủ thể được phân bố rải rác ỏ vùng rừng núi kém phát triển và có nhiều khó khăn. Sự phân cắt như vậy làm cho các hệ sinh thái bị gián đoạn ảnh hưỏng đến sự chu chuyển cân bằng của môi trưòng.

- Vói nền kinh tế sản xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp, con ngưòi ỏ đây sống trong sự lệ thuộc tự nhiên. Trưóc thiên nhiên bao la vói những sức mạnh huyền bí, con người nhỏ bé run sợ, thần thánh hoá các lực lượng siêu nhiên, chỉ biết cầu khẩn thụ động nhờ trời, nói theo kiểu Việt Nam: "ơn trời mưa nắng phải thì", "trông trời, trông đất, trông mây. Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm. Trông cho chân cứng đá mềm. Trời trong biển lặng mối yên tấm lòng". Trong điều kiện đó khoa học và công nghệ sẽ kềm phát triển. Đến khi học theo phương Tây, người ta lại bỏ nông nghiệp sinh thái chạy theo cơ giới hoá đại trà và hoá học hoá để tăng năng suất, làm cho đất đai bị thoái hoá, sâu bệnh gia tăng, lương thực thực phẩm kém phẩm chất, môi trường bị ô nhiễm, nguồn gien địa phương bị tiêu diệt... đồng thời đẩy con người tăng thêm nạn phá rừng, sa mạc hoá đất đai, ngoài lề hoá hàng loạt người lao động nông thôn chạy ra thành phố...

Hệ quả của các hoạt động canh tác của con ngưòi ỏ đây đã làm đứt đoạn sự liên hoàn của các hệ sinh thái tự nhiên và góp phần không nhỏ làm rối loạn môi trưòng.

Người ta cũng đã phân chia quá trình phát triển nông nghiệp ỏ Đông Nam Á thành hai giai đoạn: giai đoạn trồng cây sinh sản kiểu dinh dưõng - vô tính (asexualité) và giai đoạn cây có hạt - hữu tính. Giai đoạn đầu gọi là nông nghiệp làm vưòn (horticulture) trồng rau củ hay tiền cốc loại (préceréal) với nhiều hình thức sơ khai gồm cả trợ dưỡng, trồng củ, dâm cành. Đó là cầu nối từ n ln kinh Ịtế tước đoạt (săn bắn hái lượm) sang nền kinh tế sản xuất nông nghiệp đã diễn ra cách đây khoảng một vạn năm.

Các nhà khảo cổ học gọi là văn minh Hoà Bình vối các kỹ nghệ mảnh1.

Theo các nhà khảo cổ học2 3 thì chủ nhân nền văn hoá Hoà Bình là những người săn bắt hái lượm sống chủ yếu bằng rau, củ, quả trên rừng và cua, ốc, cá dưới sông suối.

Họ đã chuyển sang sản xuất nông nghiệp đa canh bắt đầu từ việc chăm sóc thuần 1 g sang dạng cây

- ¿ . „ i Lo sức ép của dân số

tren các thềm cổ quá hẹp của các dòng sông, người Hoà Bình đã phân đôi. Một bộ phận ở lại trên núi và một bộ

1. Xem Ngô Thế Phong. Mô hình phát sinh nông nghiệp và vấn đ ề cách mạng đá mới ở Đông N am Á Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1 (1),

1990, Hà Nội, tr.20-32.

2. Xem Chừ Văn Tẩn. Quá trình hình thành bản sắc văn hoá Việt Nam . Đề tài KX-06-02 do Giáo su Hà Văn Tăn chủ nhiệm - Viện Khảo cổ học, 1995, tr. 9.

3. Ngày nay ở vùng núi, người Thái còn có tục đánh dấu những cây hoang có ích ở ương rừng bằng cái "tà leo" - dấu hiệu sở hữu những cây hoang đã được trợ dưỡng.

48

phận đi xuống vùng ven biển mỏ rộng việc đánh bắt cá, thu lượm thuỷ sản (Còn được bảo lưu trong các di chỉ văn hoá Hoà Bình ven biển: Cái Bèo - Quảng Ninh, Đa Bút - Thanh Hoá, Quỳnh Văn - Nghệ An...).

Sự ra đời sóm của nông nghiệp một phần do môi trưòng quy định, nhưng quan trọng là do sự lựa chọn và cách ứng xử của cư dân tại đây1. Có lẽ đã diên ra một sự mất cân bằng giữa nguồn sản vật tự nhiên và nhu câu của các cộng đồng người vì sự gia tăng dân so. Con người đã chọn giải pháp sản xuất để tái lập sự cân bang sinh thái. Nhưng Đông Nam Á là một vùng nhiệt đói âm gió mùa, nằm giữa nội chí tuyên vói tông lượng bức xạ lốn thuộc hệ sinh thái phổ quát (đoi lập VỚI hệ sinh thái chuyên biệt vùng ôn đói) và không thuận lợi cho sự sinh sống của đàn‘động vật (do nhiêu dịch bệnh). Vì vậy, khi nông nghiệp ra đòi từ săn bắt hái lượm thì trồng trọt theo phổ rộng (đa loài nhưng "mỗi thứ một tý") mô phỏng theo hệ sinh thái tự nhiên, được phat trien trên toàn khu vực, trưóc hết là ỏ vùng cao theo các sườn núi.

Việc trồng rau củ là nhằm đáp ưng yeu cau co thức ăn bột và rau quả bổ trợ cho cuộc sống chủ yếu dựa vào nguồn đạm thuỷ sinh. Tuy nhiên con người cũng không loại bỏ việc khai thác cây hoang dại. Qua các mâu vật thu được trong các hang động thuọc văn hoá Hoà Bình (Thẩm Phi, Thẩm Pachan, hang Lụng Da...) người ta

1. Xem Ngô Thế Phong: Tài liệu đã dẫn.

thấy đặc biệt sự có mặt của cau (areca), trầu không (piper), mận (prunus), hạt trẩu (aleurites), tre (bambusa), dâu ta (celtis), bầu (lagenaria). Phải chăng điêu đó còn được luu giữ trong các huyền thoại, các tín ngương dân gian Đông Nam Á về một quá khứ vàng son cua cây củ khi nó còn là cây bột duy nhất, như trong mô tip qua bâu, cây vũ trụ trong truyện cổ, tục ăn trầu1.

Phai chăng có một thời người ta đã phát hiện ra chất bọt chưa trong thân cây các ho cau: bột quang lang, bột sagô, bột báng, bột nhúc2.

Cay cu còn được ưa chuộng và có vị trí quan trọng g dơi song cua một so cư dân vùng hải đảo. Bằng cách oan thiẹn kỹ thuật, họ đã đưa cây củ từ làm vườn lên làm ong VƠI hệ thong thuỷ lợi và phân bón. Ví như người l'wat ị * đao canh hoả chủng" tương tự như

g ua cạn, những vùng này cây khoai lang và cây

sum ra noirMv u/t - *, ~ ““ J “t’ -*“*“*•

bâu - coa hrfi 1? ' (cứu người thoát bbỏi đại bồng thuỷ);

tượng của th ¿ ¿ “v i í f 3? 1 ^ bầu - mẹ sau nạn lụt). Bầu là hình khi cỏn nguòi pháthj° hoá rau củ’ là bình tượng của sự sinh sôi nảy nở cùng một bụng mẹ à*1 ra kạt’ b ^u ^ bình tượng của quan hệ máu mủ Theo các nhà khảo c ổ h ~ 1.

quan tài hình thuyẻn 00 vỏ q rá bầu kb* thường sặp bong các mộ Xem thêm: Pham Đức TWtn

tiếp cận văn hoá hoc Ton Giải m ã trụy ệ n c<ỈLếo the° phương p h á p , 1 “ T: chí Van học, số 1, 1998, tr.51-58.

Quảng Bình: cư dto Màv^R 146111 ^ ngưỉ" b- bi.-1 lập Tây bột nhúc y’ Rục’ ^°b> Arem, Maliềng, sống chủ yếu bằng 50

sắn đã được tiếp nhận vổi một thái độ cỏi mỏ hơn nhiều so với cây lúa1.

Khi đã thuần dưỡng được cây lúa và đưa nghề trồng lúa lên vị trí trội hơn trồng rau củ, thì cũng là lúc các cư dân ỏ đây đã sáng tạo nên một hệ sinh thái chuyên biệt mang tính chất nhân văn trên cái nền của hệ sinh thái phổ quát và nghề trồng vưòn. Do đó khắp nơi hình thành một phức thể canh tác: ruộng/rẫy, ruộng/nương, ruộng/vườn...

trong nghề trồng lúa.

Từ cuộc cách mạng đá mói đến sự phát minh đồng thau chính là bưốc nhảy vọt về kỹ thuật nhằm đáp ứng những nhu cầu nông nghiệp. Vì vậy cách mạng đá mới và cách mạng nông nghiệp gắn bó vói nhau. Với những cứ liệu khảo cổ, sinh thái, văn hoá dân tộc... người ta đi đến một sự phỏng đoán hợp lôgic: cây lúa được thuần dưỡng ỏ thung lũng hẹp vùng chân núi2, từ đó nó được di chuyển

1. Hiện nay ở nhũng vùng duyên hải Việt Nam, các cư dân ven biển vẫn coi khoai láng (chất bột) với cá là bữa ăn truyền thống của họ. Khoai lang trờ thành lưong thực chính, cố năng suất cao vì sinh thái khoai lang rất họp vói d ít pha cắt. ('Trăng rằm dã tỏ lại tròn - Khoai lang đất cát dã ngon lại bùi"). Ngoài khoai lang còn có môn: mồn sọ, môn sáp, môn riềng, môn nước...

Xem thêm: Nguyễn Duy Thiệu. Của Sót - thiên nhiên và con người, trong cuốn Cảnh quan đồng bằng, Viện Đông Nam Á, Hà Nội, 1983, tr.210.

2. Theo kết quả nghiên cứu về nguồn gốc cây lúa dựa trên các vỏ trấu dược bảo lưu trong dồ gốm, giáo sư Nhật Bản Watabe Tadayo kết luận rằng, Đông Nam Á tiền sử có hai trung tâm lúa: Vân Nam (Trung Quốc) và Assam (Ấn Độ). Xem Watabe Tadãyo. Con đường lúa gạo châu Á, bản tiếng Việt, NXB KHXH, Hà Nội.

theo hai hướng và dần dần thích nghi với môi trưòng:

xuống đồng bằng vùng đất ngập nươc, ta co cay lua. nUơc vói phưdng thức "gieo mạ" (để chõ hạt lúa nẩy mâm lên cây) rồi "cấy"; lên vùng khô ta có cây lúa cạn (lúa nUdng) với phưdng thức "gieo thẳng". Lúa là một loại cay ưa nưdc, do đó hình thức trồng lúa nước có the có trưdc, con V1ÇC đưạ cây lúa cạn lên vùng cao là có sau vì phai qua mọt thdi gian thuần hoá lâu dài. v ề mặt sinh học, cây lúa nưdng co

những đặc tính rất tiến bộ như: cảm thụ ánh sang thap, khả năng đẻ nhánh ít, rễ sâu và dày, chịu lạnh ve đẹm, chịu hạn giỏi. Ngưòi ta cho rằng ba loại lúa: Indica, Japónica (còn gọi là Sínica) và Javanica được phân bo như sau: Indica có mặt hầu khắp các vùng trồng lúa và co tụoi xưa nhất, Japónica chủ. yếu ỏ Bắc và Đông Á, còn Javanica.

và các biến thể của nó có quan hệ chặt chẽ về mặt sinh học vối cỏc giống lỳa mùdng, là chủng trẻ nhất và cú vai trũ quan trọng ỏ vùng hải đảo kể cả ồ Madagascar. Phai ''h*- - nách đã dẫn), mối quan hệ

— Ui truyền giữa Javanica -với các giong lua nương cũng như địa bàn phân bố của chứng đánh dâu sự bùng nổ về dân số liên quan tới việc đưa cây lúa lên vùng khô và gắn vối những đợt di dân từ lục địa Đông Nam Á ra hải đảo? Và, khi nưỏc biền xuống thấp, những vùng đong bằng châu thổ của các con sông lớn được bồi đăp, các cư dân Đông Nam Á đã ồ ạt đưa cây lúa xuống đồng bằng ven biển, ở đây, theo giáo sư Takaya Yoshikazu, văn hoá Đông Sdn kết hợp với văn hoá Đông Hải hình thành nông pháp

52

Đông Sơn bên bờ biển vói phương thức tưới tiêu theo thuỷ triều lên xuống (Pa sang sulut), một hình thức đã được thấy ỏ Sumatra và Sulawesi (Indonesia)1. Quá trình hội tụ văn hoá tộc người được đẩy mạnh mỏ đầu rất sớm cho sự hình thành các dân tộc, các quốc gia trên cơ tầng một xã hội truyền thống kiểu tổ chức "mường" của ngưòi Thái,

"mendala" của Java mà cơ sỏ là các gia đình hạt nhân được tập hợp lại thành những tế bào làng bản do một đẳng cấp quân sự cầm đầu nhà nước, tạo thành bộ máy chính trị, vận hành trong một phương thức sản xuất mà C.Mác đã gọi là "phương thức sản xuất châu Á".

Dù cho cây lúa đóng vai trò chủ đạo (kề cả trong đời sống kinh tế cũng như trong thang giá trị xã hội) thì nông nghiệp trồng lúa vẫn là một phức hệ đa canh, , là một sự kết hợp, thích nghi tài tình của con người giữa một bên là hệ sinh thái phổ quát của tự nhiên và một bên là hệ sinh thái chuyên biệt mang tính nhân tạo suốt trong quá trình lâu dài đi từ trồng trọt rau củ theo phổ rộng đến trồng lúa nước. Do vậy, trong nghề nông có hai loại hình canh tác truyền thống trên hai loại đất trồng: nông nghiệp dùng cuốc trên rẫy và nông nghiệp dùng cày dưới ruộng2. Trong

1. Dẫn theo GS. Sakurai Yumio. Việt Nam trong lịch sử Đồng Nam Á . Bài trình bày Viện Đông Nam Á - Hà Nội.

2. Và phải chăng từ cái cuốc rồi dếh cái cày đều bát nguồn từ cái rìu bằng đá đến rìu lưỡi xéo bằng đồng? Và chữ Việt nguyên thuỷ mồ phỏng hình rìu lưỡi xéo đã gợi ý cho chứng ta bổng dáng của quá trình dó. Xem Trần Ngọc Thêm. Sdd' tr.65.

Một phần của tài liệu Văn hóa việt nam trong bối cảnh đông nam á (Trang 40 - 73)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(388 trang)