NHẬN THỨC TRÍ TUỆ VẰ ĐÒI SỐNG TÂM LINH

Một phần của tài liệu Văn hóa việt nam trong bối cảnh đông nam á (Trang 73 - 121)

Như đã nói trên, văn hoá là những gì do con người tạo nên trong quan hệ với tự nhiên và xã hội. Với con người tự

76

nhiên được phân chia thành hai vế: tự nhiên ngoài ta (môi trưòng) và tự nhiên trong ta (bản năng). Cũng vậý, xã hội được chia thành hai: xã hội ngoài ta (cộng đồng) và xã hội trong ta (cá nhân). Do đó con ngưòi bao giờ cũng ứng xử một cách biện chứng giữa hai mặt: với tự nhiên con người vừa phải thích nghi để tồn tại, vừa phải cải tạo để vượt qua những giói hạn của nó trong khuôn khổ phù hợp vối quy luật tự nhiên. Với xã hội, một mặt con ngưòi phải hoà đồng với cộng đồng, mặt khác phải khu biệt mình vối đồng loại làm cho mỗi thành viên vừa gắn bó với cộng đồng vừa phát huy được năng lực cá nhân. Các nền văn hoá khác nhau đã có những thao tác, những thiên hưóng trí tuệ khác nhau do môi trường và những thách đố (bài toán) đặt ra cần giải quyết. Do đó, mỗi nền văn hoá đã lập ra một danh sách các hệ thống hoặc địa hạt biểu trưng riêng, trong đó những phạm trù cơ bản về thời gian, không gian, tính nhân quả, số đếm... là những danh mục được coi là trung tâm cho trí tuệ ngưòi1.

Con ngưòi ỏ Đông Nam Á là cư dân nông nghiệp lúa nưóc, gắn với cỏ cây sông nưóc, núi rừng và biển cả thuộc khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa. Những nhịp đập của tự nhiên, từ mặt trăng tói con nưốc thuỷ triều, "ngày xuân con én đưa thoi", ông mặt trời quầng mặt với hạn hán bão lụt, cơn gió mùa đông bắc lạnh thấu xương... đều có mối quan hệ nhân quả đối với cuộc sống con ngưòi, trước hết là

1. Xem Howard Gardner, Sđd, tr. 27-38.

trong lĩnh vực sức khoẻ và việc sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt. Con người ỏ đây ngày càng phát hiện ra những nhịp điệu của vũ trụ với những chu kỳ khác nhau và thay đổi theo thòi gian, thời tiết, môi trường. Họ nhận ra mặt trăng khi khuyết khi tròn theo chu kỳ tháng tương ùng vối chu kỳ kinh nguyệt thụ thai của người đàn bà, chu kỳ "động đực" của loài vật; gieo hạt giống lúc trăng tròn cây mọc chóng tốt... Vì thế, người xưa coi chị Hằng là biểu tượng của tình yêu nam nữ!

Mọi biến đổi từ tròi đất mà trực tiếp là từ mặt trời,

^ ặt trăng đêu tác động đến mọi sinh vật, mọi trạng thái sư song (bệnh tật, tính cách, dáng vẻ...). Nhịp điệu sinh học cua con ngưòi có nguồn gốc từ nhịp điệu vũ trụ. Từ đó fcây sinh quan niệm con ngưòi là một tiểu vũ trụ hay đó là

^nh ảnh thu nhồ của tròi và đất. Từ đó mới có thuyết

"thiên nhân tương ứng"1. Con người nhận ra mối tương quan sự vật đắn dểị !" / - có mối quan hệ nhân quả:

-0 3 —¿u y - đêm, sáng - tối, đực - cái, -SU01 - vật, đàn ông - đàn bà... Tư duy tổng hợp và biện chứng nguyên sơ ấy tạo thành phương pháp mà các nhà khoa học gọi là tư duy lưỡng hợp (dualism e). Thông qua y định nhận thức thế giới để thích nghi, con ngưòi lao động, the nghiệm, quan sát... và cứ như thế, với hoạt động trí tuệ cua mình, con người từng bước nhận thức và khám phá được một số quy luật của tự nhiên, xã hội

1. Xem Tân Việt - Thiền Phong. Bàn vê lịch Van niên. NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1995, tr.88-90.

78

và chính mình. Những tri thức ấy cấu thành ba bộ phận mà ta gọi là vũ trụ quan, thế giới quan và nhân sinh quan.

Ngày nay chứng ta chưa đủ cứ liệu và sự hiểu biết để dựng lại toàn bộ quá trình nhận thức và sự phát triển cũng như trình độ trí tuệ của cư dân Đông Nam Á, bỏi nhiều lẽ, trong đó có việc chữ viết ra đòi muộn, các tri thức được chuyển tải bằng phương pháp truyền miệng. Hơn nữa, nằm giữa ngã tư đưòng giao lưu văn hoá thế giới, Đông Nam Á đã tiếp nhận ảnh hưỏng qua lại của nhiều nền văn hoá cổ kim, đông tây nên rất khó bóc tách và giải thích những tri thức ngày nay có quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc ra sao. Chúng ta chỉ có thể dựa vào các nguồn tư liệu của những di sản hữu thể và vô thể, dùng phương pháp giải mã để tìm hiểu kho tàng trí tuệ ấy.

Chúng tôi chọn con đường tiếp cận vói ba di sản văn hoá lớn mà chúng tôi cho rằng đó là nơi tập trung tương đối dầy đủ nhận thức của con ngưòi Đông Nam Á: đó là các hệ thống triết lý âm dương trong hoạt động tư duy, các hệ lịch1 (những tri thức trong quá trình ứng xử với thiên nhiên) và những triết lý sống trong đối nhân xử thế (những tri thức và quan niệm trong ứng xử xã hội) được tập trung qua vốn văn nghệ dân gian mà các nhà folklore học gọi là túi khôn dân gian.

1. Những kiến thức về các hệ thống lịch, chúng tôi đã sử dụng tài liệu của nhóm chuyên đề "Lịch - di sản văn hoá các dân tộc" do kỹ sư Bùi Đăng Tuấn chủ biên với sự tham gia của Lê Văn Trụ, Phạm Đức Dương.

v ề nhận thức trí tu ệ

a) Triet lý âm dương: Đây là phương pháp khái quát trong hoạt động tư duy của cư dân nông nghiệp Đông Nam A thòi tiền sử. Cái đập vào nhận thức của họ là sự đắp đổi lặp đi lặp lại giữa ngày và đêm, giữa mặt tròi và mặt trăng, giữa nắng và mưa... Sinh hoạt của con người ỏ đây găn vói mặt trời và mặt đất. Nhờ có mặt tròi mà ban ngày sang, nóng, con người hoạt động trong cuộc sống thực; còn đem thì toi, lạnh, con ngưòi nằm ngủ và mơ trong một thế giơi ao. Nhò có mặt đất với những cảnh tượng tự nhiên đất nước, núi sông mà con ngưòi và muôn loài có nơi trú ngụ va sinh sôi nẩy nỏ. Và từ đó những cặp lưỡng hợp được xâu chuoi va khái quát hoá thành phương pháp tư duy tổng hợp âm dương (ngày - đêm, trời - đất, nóng - lạnh, nắng - mưa, con - cạy, đực - cái, nam - nữ, trắng - đen...). Âm và

^ươnglà hai mặt trong một thể thống iứiất "tuy một mà

Vv-’r- •í'.'-n ỉ.o nhau, vừa khu biệt lẫn

^ ch doi xứng, biến đổi liên tục tạo nên nhịp sống đắp đổi theo một sự sắp xếp, một trật tự:

- Chuyển dịch từ âm sang dương

Tang trương trong âm có dương, trong dương CÓ âm.

- Đối xứng bên âm bên dương.

- Cân bằng âm dương

va, con ngươi đã dùng phương pháp tư duy theo triết lý âm dương đe phan căt thế giới theo cảm thức của họ và cũng

80

bắt đầu trải nghiệm từ chính bản thân họ mà suy luận ra (sau này ta gọi cách làm đó là "tự kỷ trung tâm luận").

Tư duy biện chứng này ngày càng phát triển cùng với nền văn minh nông nghiệp lúa nước bởi lẽ con ngưòi ngày càng quan tâm đến mối quan hệ mật thiết giữa sinh quyen (khí hậu, thòi tiết, thuỷ văn) và sinh cảnh (đất đai, động vật, thực vật, vi sinh vật). Hệ quả của sự tác động qua lại này đều ảnh hưỏng trực tiếp tới sản xuất và đời sống con ngưòi.

Tua rua một tháng mười ngày Cấy tróc vùng cày cũng được lúa xơi Bao giờ nắng rữa bằng trời

Tua rua quắt lai thì thôi cấy mùa

(ca dao)

Và cứ như thế, đòi này qua đời khác, từ cảm nhận đen thức nhận, cư dân Đông Nam Á đã dùng phép âm dương để chia cắt thế giới trên tất cả mọi bình diện của đời sống:

không - thòi gian, vật chất và tinh thần, trí tuệ và tâm linh.

Có thể sau này người Trung Nguyên đã thâu hoá triet lý âm dương sơ khai của các tộc ngưòi phương Nam mà họ gọi bằng một cái tên phiếm xưng - Bách Việt, và quy phạm hoá, điển chế hoá thành một thứ triết học âm dương vói những thuật toán cổ của dịch lý. Theo tôi thì dân tộc nào cũng có triết lý sống, nhưng từ triết lý đến triết học không phải dân tộc nào cũng có thể thiết chế hoá được nhất là giai đoạn tiền sử, sơ sử.

Gần đây các nhà khoa học lịch sử đang dựa vào nhiều loại tư liệu để giải mã triết lý âm dưdng được "ghi" lại trên các di sản hữu thể và vô thể. Đó là việc giải mã hoa văn trên trống đồng, các bức điêu khắc trên đá ỏ Sapa, các biểu tượng trong lễ hội, các phong tục tập quán...

Nhiều nhà khoa học đã tiếp cận với triết lý âm dương trên mặt trống đồng dưối dạng lịch Âm dương thể hiện vũ trụ quan, thế giới quan và nhân sinh quan cùa ngưòi Việt cổ.

Dương Thiệu Tống trong bài viết của mình "Trống đồng Lạc Việt và Kinh dịch Trung Hoa" (Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, số 3,1999, Hà Nội, tr.58-61), xem trong đông Lạc Việt là một kỳ thư, có trước An Độ 500 năm, trước Trung Hoa 1000 năm. Bằng trực giác để cảm nhận, tác giả gọi tư tưỏng trống đồng là dịch (biến dịch, thay đổi). Theo tác giả chữ dịch h gồm hai phần © hình tròn của trời (Lạc thư), và b,v'ì' ' ’ ...1 ¡.ong song ¿7 của mặt

giao iiộp biêu thị bằng chữ — tương đương với khái niệm "vuông tròn". Đó là nguồn gốc chữ dịch Trung Hoa. So với Kinh Dịch Trung Hoa thì:

Trống đồng: rỗng - đặc © -> đạo biến hoá Kinh Dịch: âm dương, cơ ngẫu -> đạo sinh sinh

Trên trong đồng có hình lông công ỏ tâm trống đồng gần với vòng thái cực ở tâm bát quái © khác vói vạch

và đứt — . Từ Xuân Thu trỏ về trưóc chỉ có vạch, không có vòng thái cực gôm chấm rỗng đặc. Vòng cung chỉ

82

xuất hiện trên bát quái cuối Chiến quốc đầu Hán, nghĩa là sau trống đồng Lạc Việt mấy trăm năm. Có thể bát quái mô phỏng của Đông Sơn. Do đó bát quái từ Xuân Thu về trước chỉ là công cụ bói toán cát hung tiêu tưống, thì ỏ trống đồng Lạc Việt mang ý nghĩa triết học về vũ trụ, trời đất, vạn vật và con người.

Trống đồng có 3 phầri:

- Từ vành 1-5: nguyên khí của trời - Từ vành 11-16: nguyên khí của đất - Từ vành 6-10: chim, hươu, người

Như vậy, từ một cực lớn (hình sao ỏ tâm trống) biểu thị các cực "nóng" (14 tia), cực "lạnh" (12 tia) sinh ra hai: trời - đất giao nhau sinh ra muôn vật hoá từ chim -> ngưòi; 1 sinh 2, 2 sinh 4... Đó là đạo biến hoấ, còn dịch của Trung Hoa là đạo sinh sinh (sinh sinh chi vị dịch: sinh sinh ra mãi gọi là dịch).

Gần đây, việc nghiên cứu những bản khắc trên đá ở Sapa cũng đã cho chúng ta biết được quan niệm về thiên - địa - nhân của ngưòi Việt cổ. Trên bức tranh (ký hiệu H8, theo Phạm Ngọc Liễn)1, tổ tiên ta khắc mặt trời và trái đất đều tròn và quay ngược chiểu nhau: trái đất quay ngược chiều kim đồng hồ (như trên mặt trống đồng) từ Tây sang Đông, mặt trời quay theo chiều kim đồng hồ từ Đông sang

1. Phạm Ngọc Liễn - Khu chạm khắc dá cổ Sapa, tr.40, bản thảo chưa in, dã dăng ký bản quyên tác giả số 2162 VH/BQ do cục BQTG cấp ngày 1/9/1999. Cảm ơn tác giả đã cho phép chúng tôi sử dụng tư liệu này.

Tây. Trên trái đất có cây. giữa đất - tròi là con người, một nam một nữ, nam trên nữ dưới với bộ sinh thực khí rất to... Tất cả đều phản ánh triết lý âm dương và mối quan hệ tổng hợp; thiên - địa - nhân.

Khó khăn đối vói chứng ta ngày nay là rất khó dựng lại cái tư duy nguyên hợp buổi bình minh của cư dân Đông Nam Á vì nó là những thông điệp nằm trống thế giới ý niệm - tâm thức của họ, những hiện vật hay biểu tượng hàm chứa những giá trị ấy đã mất mát rất nhiều theo thòi gian, và hơn thế nữa tư duy cũng đẫ biến đổi rất khác so vói buổi đầu.

b) Các hê lich • •

Dựa trên cơ sồ triết lý âm dương và vối những kinh nghiệm quan sát của mình, cư dân Đông Nam Á đã phân căt không - thời gian theo cảm thức cùa họ để tổ chức cuộc song nong nghiệp lúa nưốc phù hợp với môi trường nhiệt đới ẩm gió mùa trêr' ( ng từ rừng núi

.. Va ra mèn cả. Có thể nói phần

lơn nhưng quan sát và cảm nhận về vũ trụ được ghi lại và áp dụng trong các hệ lịch. Có thể có ba loại lịch cơ bản:

- Lịch đo thời gian thiên văn - Lịch đo thời gian sinh giói - Lịch đo thời gian con người 1. Lđich đo thơi gian thiên văn’

Cũng như các dân tộc khác trên hành tinh, con ngưòi Đông Nam A cũng phân chia thời gian thành ngày, tháng và mùa.

84

Cách đo thòi gian trong ngày, ngưòi xưa dựa vào mặt trời: ngày và đêm như một đơn vị cơ bản. Người ta đi kiếm án lúc mặt trời mọc, nghỉ trưa vào lúc đứng bóng và về lại nơi cư trú trước khi m ặt trời lặn. Còn đêm được nhận diện bằng sự xuất hiện của trăng. Ngày nay người Việt chia ra

"Đêm năm canh, ngày sáu khắc" là theo lịch can - chi sau này (đêm 5 canh theo tập thập can còn gọi là thiên can, ngày 6 khắc theo tập thập nhị chi còn gọi là địa chi).

Cách tính tháng dựa theo chu kỳ thay đổi của tuần trăng: từ không trăng đến trăng tròn (thượng tuần), từ trăng tròn đến không trăng (hạ tuần). Đó là một tháng (do đó từ trăng và tháng trong các ngôn ngữ Đông Nam Á đều cùng một gốc: trăng) gồm có 29-30 ngày. N gày nay, chúng ta còn th ấy ồ Lịch Chàm tháng có 2 tuần: 15 ngày sáng "bangun" (cổ th ể có m ối quan hệ ngôn ngữ vói từ "mồng" trong tiến g V iệt) và 15 ngày tối "Klăm". N gày

"Klăm" đầu tiên là ngày "rằm" vì lúc đó tròi tối nhất và trăng sáng nh ất, (từ "Klăm" là đêm, là tối được ngưòi Mã Lai, B ahnar, Inđônêxia, D ayak cùng dùng. Từ

"Klăm" có chung gốc với từ "đăm" của Thái, từ "đêm" và

"tăm" trong "tối tăm" của ngưòi V iệt, và, có th ể chung gốc vói từ "rằm").

Người Đông Nam Á chia một chu kỳ mà ta gọi là năm thành hai mùa: mùa nắng và mùa mưa. Cuối mùa nắng thì họ chuẩn bị đốt rẫy, đầu mùa mưa thì gieo trồng. Vì vậy họ ăn tết vào thòi kỳ chuyển mùa từ nắng sang mưa

đe băt tay vào việc canh tác. (ỏ Lào, Thái Lan, Campuchia...

gọi la tet năm mối, tet cầu mưa, nên có tục té nước).

Do phai di chuyên trong không gian và thời gian nên họ phai đanh dâu độ dài và hướng bằng khoảng cách, đánh dấu số lượng lần bằng nút và vạch. Từ đó dẫn tới ai mẹm cọng cac con so và chia các khoảng cách (thời gi n va khong gian). Từ thuật cộng đến thuật chia phải

N ^ ^ươC trong nhan thức của người Đông hp ^ 0 a S1^ pkân kỳ trong tư duy con ngưòi. Và các nhân + le^ quan mật thiết đến sự phân chia các bộ phận trên co thể con nguôi 1 rồi 2, rãi 5, r6i 10.

tun™ ^ chia thÒi gian ‘hiên văn dựa vào các hiện

e t d s f l ^ lích văn cun

vào mặt trời), âm lịch

‘¿ung của cả hail TV a dương ^cỉl vào srf- và dần dà neà ' u ^ưi^1 ^ e° n^° thì cũng có số dư

ôờ'nchựủ1ch rtS !!'vr ớ ^ aU;.Vỡ ớhế nguũi ta phải

86

yên trong lòng" (ca dao). Con ngưòi dần dần nhận ra mối quan hệ qua lại giữa những hiện tượng của tròi đất (vũ trụ) như khí hậu, thời tiết, thuỷ ván, đất đá vói các sinh vật (sinh giói) từ cây cối đên con vật trên mặt đầt, nhât là khi họ từ săn bắt hái lượm chuyển sang trồng trọt, chăn nuôi. Những tác động đó thưòng đem lại hai hệ qua ngược chiêu thuận và nghịch, có lợi cho sức khoe con ngươi va nàng suất cây trồng vật nuôi hoặc gây bệnh tật chêt chóc.

Đó là mối quan hệ tròi - đất (trời nắng, trời mưa, tròi nóng, trời lạnh... đất khô đất ưót, đất xốp đất rắn. Từ đó hình thành sự phân chia thòi gian thành các giai đoạn sUih trưởng của muôn loài trong đó có con ngươi. Ta gọi đo lù lịch đo thòi gian sinh giói.

Con người phát hiện ra cây cối, động vật cũng như con ngưòi đều trải qua ba thòi kỳ: sinh ra lớn lên, đâm hoa kết trai - sinh con đẻ cái, cuối cùng là già và chết để rồi lặp lại

*uột chu kỳ tiếp theo. Qua cảm nhận của họ cây cối có hai cuch sinh sản: dâm cành để nây mâm (sau nay ta gọi la c°u đưòng vô tính) và đúc hạt nây mâm (con đương hữu tír*b). Khi sinh sản cây cối cho con người các sản phẩm của

để làm thức ăn vật dụng, thuốc men. Con vật cũng vậy đuợc nở ra từ trứng (chim chóc) và từ trong bụng đẻ ra con.

Chúng cho con ngưòi những sản phẩm làm thức ăn, vật kéo, vật dụng, thuốc men, v.v... Mỗi một thòi kỳ như vậy sUih vật có những biến đổi và nhu cầu sinh lý riêng: Dựa Irên chu kỳ sinh giới, nhịp điệu môi trưòng sinh thái và sUih hoạt quần thể, người ta lập lịch thời gian cho cấu trúc

Một phần của tài liệu Văn hóa việt nam trong bối cảnh đông nam á (Trang 73 - 121)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(388 trang)