LƯƠNG TRONG NGÀNH ĐIỆN LỰC VIỆT NAM (EVN)
2.3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TIỀN LƯƠNG CỦA EVN
2.3.2. Thực trạng quản lý định mức và ĐGTL
ĐMLĐ là 1 trong những căn cứ chủ yếu để xây dựng ĐGTL, là cơ sở của tổ chức nhân lực tại các DN. Tại EVN, trước 1998, do chưa xây dựng được hệ thống mức lao động cho khâu SXKD điện, nên ngành điện sử dụng số liệu định biên do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành, tham khảo tập tài liệu định mức (ngành Năng lượng) của Liên Bang Nga. Về cơ bản, giai đoạn này, công tác ĐMLĐ chưa tìm được hướng đi theo những yêu cầu của KTTT. Mặt khác hệ thống mức lao động ở giai đoạn này thiếu đồng bộ, chắp vá, không thích hợp với đặc tính tổ chức lao động và các điều kiện kinh tế – kỹ thuật của EVN. Hệ thống định biên lao động còn mang nặng tính
K IL O B O O K S .C O M
bao cấp, luôn có xu hướng tăng qui mô nhân lực, mà không gắn với hiệu quả SXKD. Các nhà Quản lý không nắm được thực tế nhu cầu lao động của ngành, không thể cân đối hợp lý các nguồn lực và đặc biệt, không dự báo và tính toán đúng QTL.
Từ năm 1998, sau khi Chính phủ đồng ý cho EVN áp dụng cơ chế tiền lương đặc thù, công tác ĐMLĐ đã có những cải cách căn bản. Đã xây dựng tập ĐMLĐ SXKD điện, áp dụng thống nhất vào các khâu chính yếu trong toàn EVN. Tập ĐMLĐ bao gồm cả mức chi phí lao động và các tiêu chuNn hao phí thời gian, qui ra công lao động, có CBCN tương ứng với CBCV. Có 6 hệ thống các công việc SXKD điện được chi tiết hoá, mô tả về các mức hao phí lao động:
- Các công việc quản lý vận hành các nhà máy điện (các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện chạy than, nhiệt điện chạy dầu, Turbin khí, trạm Diezel).
- Các công việc QLVH đường dây tải điện (ĐZ trên không 500 kV, 220 kV, từ 66 ÷ 110 kV, 35 kV, từ 6 ÷ 22 kV, dưới 1000 V và ĐZ cáp ngầm từ 6
÷ 35 kV).
- Các công việc quản lý vận hành trạm biến áp (hệ thống trạm biến áp 500 kV, 220 kV, 110 kV, trạm lặp cáp quang, trạm thông tin tải ba, chốt bảo vệ đường dây 500 kV, trạm trung gian, tram cắt ranh giới, trạm biến áp phân phối…
- Các công việc thuộc hệ thống điều độ quốc gia và điều độ tỉnh, thành phố.
- Các công việc kinh doanh, cung ứng điện năng (quản lý và ghi chỉ số công tơ, quản lý thu tiền điện, sửa chữa thường xuyên và thay thế công tơ).
- Các công việc phục vụ, phụ trợ quản lý gián tiếp (bao gồm các công việc phục vụ, phụ trợ các công ty điện lực, khối truyền tải điện và các công việc quản lý gián tiếp chung của cơ quan EVN và các đơn vị thành viên).
Để đánh giá thực trạng công tác ĐMLĐ theo các nhóm công việc nói trên tại EVN, Luận án xin tập trung vào một số nội dung sau:
K IL O B O O K S .C O M
i. Về số lượng, chất lượng mức
Hệ thống ĐMLĐ mà EVN đang áp dụng được xem là khá đầy đủ và toàn diện. Hầu như tất cả các nội dung công việc liên quan đến quá trình sản xuất - Truyền tải - Kinh doanh điện đã được mô tả khá chi tiết và đều đã có định mức. Về mặt chất lượng, theo quy định, ĐMLĐ (KH/TH) chỉ được giao động trong khoảng từ 95 -115 %. Nhưng qua biểu 3, thấy có những năm (2000, 2002) EVN đã thực hiện mức vượt quá giới hạn cho phép nói trên. Mức thời gian quá lớn cũng tức là mức sản lượng thấp đã làm tăng giả tạo QTL. Hệ quả của nó là là tốc độ tăng chi phí lao động lớn hơn tốc độ tăng NSLĐ. Điều đó nói lên rằng, chất lượng mức lao động của EVN vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Biểu 2.3: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỨC LAO ĐỘNG QUA CÁC NĂM 2001-2006
Chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1. MLĐ KH (Tspkh) Giờ/1000kwh 9,8 8,05 7,83 6,69 6,39 6,15 2. MLĐ TH (Tspth) Giờ/1000kwh 8,1 7,6 6,7 6,55 6,19 6,11 3. TH mức (Tspkh/Tspth) % 122 105 116 102 103 101
(Nguồn: Ban LĐTL, EVN) ii. Về phương pháp xác định ĐMLĐ tổng hợp
ĐMLĐ của ngành điện là tổng hợp mức hao phí của từng phần tử trên toàn hệ thống. Mỗi khâu lại có nhiều công việc khác nhau. Mặt khác, tính chất của sản phNm điện năng rất đặc thù: Không mang hình thái vật chất, không nhìn thấy, không sờ mó được, không có tồn kho, sản xuất ra phải tiêu dùng hết… nên việc xây dựng mức lao động tổng hợp cho sản phNm điện năng phức tạp hơn nhiều so với các sản phNm vật chất khác. EVN được thành lập từ năm 1994, nhưng đến năm 1998, cùng với việc thực hiện Nghị định 28 CP ngày 28 tháng 3 năm 1997 về đổi mới QLTL và thu nhập trong các DN Nhà
K IL O B O O K S .C O M
nước, thông tư 14/LĐTB&XH về hướng dẫn phương pháp xây dựng ĐMLĐ đối với các DN Nhà nước, EVN mới chính thức thành lập Hội đồng ĐMLĐ mà nhiệm vụ chủ yếu là tổng hợp, hệ thống lại và chuNn hóa ĐMLĐ áp dụng thống nhất trong toàn EVN để trình liên bộ thNm định và giao ĐGTL. Cái được của tập định mức là có thể thống nhất áp dụng cho tất cả các mức đơn vị trực thuộc nhưng nhìn chung vẫn còn mang nhiều dấu ấn chủ quan của các cán bộ định mức. Chính vì thế năm 1999 nó đã được sửa đổi bổ sung nhiều.
Theo đó:
Kết cấu mức lao động tổng hợp:
Tsp = Tcn + Tpv + TQL = Tsx + Tql (9) Trong đó:
Tsp: mức lao động tổng hợp (tính bằng giờ công) cho một đơn vị sản phNm (1.000 kWh);
Tsx: lượng lao động sản xuất cho một đơn vị sản phNm;
Tcn: lượng lao động công nghệ cho một đơn vị sản phNm;
Tpv: lượng lao động phục vụ, phụ trợ cho một đơn vị sản phNm;
Tql: lượng lao động quản lý cho một đơn vị sản phNm;
Đơn vị tính giờ công/1000 kwh;
Những đại lượng của mức lao động tổng hợp, được chi tiết hóa và quy định phương pháp tính như sau:
♦
♦♦
♦ Phương pháp xác định lượng lao động công nghệ
Lượng lao động công nghệ được xác định bằng tổng thời gian định mức (Có căn cứ kỹ thuật hoặc thống kê kinh nghiệm) của những công nhân chính thực hiện các nguyên công theo quy trình công nghệ và các công việc không thuộc nguyên công để SXKD điện năng trong các điều kiện tổ chức, kỹ thuật xác định. Trường hợp một nguyên công được thực hiện trên nhiều máy móc thiết bị khác nhau, có mức thời gian và sản lượng khác nhau thì tính mức bình quân gia quyền.
K IL O B O O K S .C O M
Công thức xác định lượng lao động công nghệ như sau:
n cni i 1 cn
N x8
T Q
= =
∑
(10) Trong đó: Tcn: lượng lao động công nghệ (giờ/1000kwh);
Q: khối lượng sản phNm (1000kwh);
n cni
i 1
N
=
∑ : Tổng số ngày công theo quy định (thuộc quy chế làm việc) của lao động công nghệ;
Tổng số ngày công của lao động công nghệ được xác định, bằng tổng số lao động công nghệ của tất cả các bộ phận trên dây chuyền SXKD điện năng, theo công thức:
ΣNcn = Σ(Ncnix KLCVi) (11)
Trong đó: ΣNcn: Tổng số ngày của lao động công nghệ;
KLCVi: Khối lượng công việc i;
Ncni: ĐMLĐ tính bằng ngày công của lao động công nghệ thực hiện công việc i; n là số loại công việc trên dây chuyền SXKD điện năng.
Ở đây lượng lao động công nghệ của từng công việc được xác định theo các phương pháp:
- Căn cứ quy trình quản lý vận hành thiết bị, chụp ảnh ngày làm việc của các nhóm công tác để xác định mức hao phí cho từng bộ phận công việc từ đó xác định tổng mức hao phí (giờ – công) cho một đơn vị quản lý (Giờ công/km đường dây; giờ công/1000 khách hàng….)
- Định biên lao động: Nhằm xác định số lao động định biên hợp lý của từng bộ phận tham gia sản xuất (Trạm biến áp, trạm lặp cáp quang…)
K IL O B O O K S .C O M
Như vậy, phương pháp chủ đạo để tiến hành ĐMLĐ tại EVN thời gian qua là sự kết hợp giữa thống kê kinh nghiệm, phân tích và chuyên gia. Đây là phương pháp đơn giản, ít tốn kém, nhưng kết quả chưa đạt được tính chính xác cao. Chính vì vậy khi áp dụng phương pháp này, yêu cầu phải thường xuyên đánh giá thực hiện mức và điều chỉnh mức hàng năm. Nếu phân tích chi tiết các mức lao động, có thể nhận thấy chất lượng mức phụ thuộc đáng kể vào ý kiến chủ quan của những người làm công tác định mức. Trên thực tế đã xuất hiện khối lượng lớn nội dung công việc không làm (Do nguyên nhân khách quan như không thể cắt điện vì hệ thống không có dự phòng) mà vẫn tính vào định mức (Đo điện áp chuỗi sứ, vệ sinh sứ…); lại có những hạng mục có tính chất sửa chữa lớn, hao phí lao động được tính trong giá trị công trình (Đắp đất, kè móng, nâng độ võng…). Mặt khác, mỗi mức lao động với những điều kiện khác nhau thì sẽ khác nhau, thậm chí là khác nhau rất nhiều (Đồng bằng, trung du, rừng núi…) nhưng việc xác định chính xác khối lượng thiết bị (Số km đường dây) gắn với từng loại địa bàn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc. Đối với trạm biến áp thì lực lượng lao động phục vụ phụ trợ, lực lượng gián tiếp đã được tính trong định biên, nhưng khi tính số lượng lao động phụ trợ và lao động quản lý toàn công ty lại cộng cả những người này vào để tính tỷ lệ, đó là sự tính trùng. Những nguyên nhân này dù ít, dù nhiều đêu làm giảm tính tiên tiến trong hệ thống định mức của EVN.
Từ lượng lao động công nghệ cho từng công việc, xác định lượng lao động công nghệ cho 1000 kwh điện thương phNm theo công thức nêu trên tức là xác định số lượng ngày công của lao động công nghệ. Tổng số ngày công lao động công nghệ là cơ sơ để tính toán lượng lao động phục vụ, phụ trợ sẽ đề cập dưới đây.
♦
♦♦
♦ Xác định lượng lao động TPV và lao động TQL
Lượng lao động phục vụ, phụ trợ và lao động gián tiếp quản lý được EVN tính theo tỷ lệ phần trăm của tổng số lao động. Theo đó, lao động phục vụ, phụ
K IL O B O O K S .C O M
trợ bằng 22% tổng số lao động, lao động gián tiếp quản lý bằng 11% tổng số lao động. Tức là: Tpv = 22% x TCN/67%; TQL = 11% x TCN/67% (12)
Rõ ràng, cách tính này không thể cho kết quả chính xác. Ngoài việc tính trùng một bộ phận lao động gián tiếp quản lý như đã phân tích, cộng với bộ máy EVN và một số đơn vị hành chính khác, làm cho tỷ lệ gián tiếp quản lý gần 15% (Biểu 2.4) là một tỷ lệ khá cao. Điều này sẽ có ảnh hưởng không tốt đến NSLĐ bình quân và do đó ảnh hưởng không nhỏ đến những căn cứ lập kế hoạch QTL hàng năm.
Biểu 2.4: KẾT CẤU MỨC LAO ĐỘNG NĂM 2003 Trong đó Đơn vị tính
Mức lao động tổng
hợp TCN TPV TQL
Giờ/1000kwh 6,69 4,66 1,07 0,96
% 69,66 15,99 14,35
(Nguồn Ban LĐTL, EVN)
Tập ĐMLĐ được ban hành đã xoá lấp được khoảng trống trong việc sử dụng các công cụ quản lý nhân lực, các thước đo dùng trong việc tính toán đơn giá và trả lương của EVN. Hệ thống mức lao động đã trở thành công cụ thiết yếu trong các hoạt động quản lý, điều hành của EVN. Chính vì vậy, từ năm 2000 đến 2005, ngành điện lực đã 2 lần chỉ đạo rà soát, kiểm định và sửa đổi, hoàn thiện tập ĐMLĐ được xây dựng từ năm 1998. Lần thNm định và sửa đổi, bổ sung gần đây nhất do viện khoa học lao động và xã hội, thuộc Bộ Lao Động thương binh và xã hội thực hiện, hoàn thành tháng 10 năm 2005, đã đạt được những tiến bộ rất căn bản, đáp ứng mục tiêu cải cách mô hình tổ chức và cơ chế quản lý của EVN theo những yêu cầu của KTTT và quá trình hiện đại hoá ngành điện. Tại tập ĐMLĐ ban hành tháng 11/2005, đại đa số các công
K IL O B O O K S .C O M
việc trong toàn hệ thống đều có mức. Phần mô tả nội dung công việc, quy trình thực hiện công việc và điều kiện áp dụng mức lao động khá rõ ràng và chi tiết. So với tập định mức ban hành tháng 4 năm 2002 (đã kiểm định, sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất) đến tháng 11 năm 2005, số mức thời gian được điều chỉnh tăng lên (tăng số công lao động để thực hiện công việc) chiếm 14%, số mức được điều chỉnh giảm đi (giảm số công lao động) chiếm 21% tổng số mức được kiểm tra, xem xét. Những mức được điều chỉnh tăng chi phí lao động, chủ yếu do điều kiện thực hiện công việc và tính chất phức tạp của công việc, đã không được tính toán đầy đủ ở tập mức trước. Còn những công việc được điều chỉnh giảm chi phí lao động, do đã tăng tỷ lệ cơ khí hoá, tự động hoá, do trình độ tay nghề của NLĐ đã tăng.
Mặc dù đã đạt được những tiến bộ có tính cách mạng về công tác ĐMLĐ trong vòng 5 năm lại đây, nhưng phân tích toàn diện các hoạt động ĐMLĐ, vẫn thấy một số hạn chế, thiếu khuyết sau:
Thứ nhất, trong 1 đơn vị, ngoài các công việc liên quan trực tiếp đến SXKD điện đã có ĐMLĐ như trên thì còn nhiều nội dung khác chưa có ĐMLĐ (lái xe, thí nghiệm điện, sửa chữa thiết bị, quản lý…) hiện chưa có ĐMLĐ. EVN thường tính nhu cầu lao động loại này thông qua tỷ trọng lao động trực tiếp hoặc áp dụng ĐMLĐ của các ngành khác (có nội dung công việc tương tự). Điều này, trong nhiều trường hợp làm biến dạng nhu cầu thực tế về lao động của EVN.
Thứ hai, EVN đang được Chính phủ quan tâm, đầu tư để nhanh chóng đổi mới công nghệ và kỹ thuật sản xuất. Các khâu công việc quan trọng trên dây chuyền SXKD đang chuyển từ cơ khí hóa sang tự động hoá và công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi vào các hoạt động quản lý. Điều đó đặt ra những yêu cầu cao về chất lượng đội ngũ nhân viên, đồng thời tạo điều kiện giảm chi phí lao động. Do vậy, một số mức lao động ban hành trước đây đã
K IL O B O O K S .C O M
trở nên lạc hậu, trong khi việc xem xét, kiểm định, tính toán lại các tiêu chuNn hao phí thời gian, phải mất từ 1 ÷2 năm. Sự bất cập này đang là một thách thức lớn trong công tác quản lý lao động của EVN.
Thứ ba, Bộ máy tổ chức và lực lượng nhân viên làm công tác định mức trong toàn ngành vừa thiếu, vừa yếu. Cả EVN có trên 80 ngàn lao động với 59 đơn vị thành viên, nhưng đến 2004, mới có 4 công ty thành lập phòng lao động tiền lương, mà trong mỗi phòng lao động tiền lương có 1 cán bộ theo dõi, quản lý ĐMLĐ. Toàn bộ hoạt động khảo sát, xây dựng mới, kiểm tra, thNm định, phân tích đánh giá hiện trạng ĐMLĐ toàn ngành đều phải thuê ngoài. Các chuyên gia được thuê chỉ giỏi về lý thuyết ĐMLĐ, nhưng thiếu hiểu biết sâu và toàn diện về quy trình thực hiện các công việc của ngành điện. Chất lượng định mức của ngành bị ảnh hưởng nhiều bởi nhân tố này.
Thứ tư, Tính chất độc quyền (vừa có yếu tố tự nhiên, vừa có yếu tố nhà nước) trong SXKD của EVN, cũng là một nhân tố hạn chế tính tích cực chủ động và hiệu quả của công tác ĐMLĐ. Ngoài hệ thống mức của khối SXKD đã được xây dựng và quản lý có nề nếp, một số khâu công việc chưa tự xây dựng được mức. Do vậy, vấn đề cân đối nhân lực của toàn ngành đang còn nhiều bất cập. Hơn nữa, cũng do hệ thống thước đo và kiểm soát chi phí lao động của ngành chưa đồng bộ, nên khi duyệt ĐGTL của EVN, số lao động định mức lại được Liên Bộ cho phép điều chỉnh giới hạn từ 95% ÷115% so với lao động thực tế sử dụng. Thế là vô hình dung, quy định này của Liên Bộ đã không khuyến khích EVN cũng như các đơn vị trực thuộc tiết kiệm lao động, tìm các biện pháp hạn chế xu hướng "phình ra” của biên chế.
Thứ năm, quản lý ĐMLĐ chưa gắn với tổ chức lao động khoa học, hợp lý hoá sản xuất, chưa có biện pháp khuyến khích tiết kiệm lao động, dẫn đến số tuyệt đối về lao động hàng năm đều tăng, tạo áp lực xấu cho việc tăng QTL. Lao động tăng tất yếu lương bình quân giảm và kéo theo việc chảy máu chất xám trong đội ngũ CBCNV của EVN.
K IL O B O O K S .C O M
Thứ sáu, chưa tiến hành rà soát lại ĐMLĐ hàng năm theo hướng rút ngắn thời gian hao phí, chưa công khai ĐMLĐ để mọi người cùng biết và phấn đấu để tăng NSLĐ, từ đó tăng tiền lương, thu nhập cho NLĐ.
2.3.2.2. Đơn giá tiền lương
Đã hình thành và thực hiện cơ chế phân cấp giao duyệt và quản lý ĐGTL của EVN. Theo đó, ĐGTL của các đơn vị trực thuộc do EVN phê duyệt.
ĐGTL của EVN, Chính phủ uỷ quyền Liên bộ Bộ Lao động thương binh và xã hội - Bộ Tài chính phê duyệt. Ngay từ 1999, do nhận thức về vai trò và ý nghĩa của việc quản lý ĐGTL, EVN đã soạn thảo và ban hành "Quy chế tạm thời giao ĐGTL, phân phối QTL cho các đơn vị SXKD".
Căn cứ để chỉ đạo xây dựng và phê duyệt ĐGTL là: ĐMLĐ tổng hợp SXKD điện (đã đăng ký với Bộ Lao động thương binh và xã hội) và Lmin, các chế độ hiện hành về phụ cấp, các hệ số điều chỉnh Lmin. Luận án xin tập trung phân tích cách thức xây dựng ĐGTL và quy chế duyệt, giao và quản lý ĐGTL trên những nội dung sau.
i. Cấu thành của đơn giá tiền lương:
ĐGTL của EVN gồm 2 phần, được thể hiện như sau:
Vđg = Vđg1 + Vđg2 (13)
Vđg1 là phần "gốc", phần cơ bản trong ĐGTL tổng hợp của EVN, được xác định trên nền của Lmin EVN, ĐMLĐ tổng hợp cho 1000 kWh điện thương phNm và hệ số cấp bậc và phụ cấp bình quân. Công thức xác định Vđg1
như sau:
Vđg1 = xTsp
xG
Hpc Hcb EVNx L
26 bq
) (
min +
(14) Trong đó:
Lmin EVN là Lmin của EVN, được tính như 2.2.3.1 của Luận án.
Hcb là hệ số lương cấp bậc công việc bình quân được tính theo ĐMLĐ tổng hợp đã đăng ký với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.