Các yếu tố khí hậu

Một phần của tài liệu Tính toán thuỷ văn (Trang 49 - 52)

Chương 4. CHUẨN DÒNG CHẢY NĂM

4.8. DÒNG CHẢY SÔNG NGÒI VIỆT NAM VÀ CÁC YẾU TỐ ĐỊA LÝ TÁC ĐỘNG TỚI NÓ

4.8.1. Các yếu tố khí hậu

Trong các nhân tố địa lý tự nhiên thì khí hậu là nhân tố cơ bản, đóng vai quan trọng nhất trong quá trình hình thành và diễn biến dòng chảy sông ngòi.

Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm của nước ta, mưa là hình thức nước rơi duy nhất. Do đó số lượng và tính chất của nước mưa cùng sự bốc hơi từ lưu vực đã quyết định tiềm năng của dòng chảy sông ngòi.

Mưa và bốc hơi là các yếu tố khí hậu tham gia trực tiếp vào cán cân nước của mỗi lưu vực sông cụ thể.

1. Mưa. Đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa của nước ta thể hiện rất rõ rệt lượng mưa trung bình trong nhiều năm và tương quan giữa lượng mưa và lượng bốc hơi năm. Thật vậy, xét trên toàn lãnh thổ

50

nước ta, thì lượng mưa trung bình nhiều năm khoảng 1960mm. So với lượng mưa trung bình cùng vĩ độ (100-200 Bắc) thì ở nước ta có lượng mưa khá dồi dào, gấp 2,4 lần. Chỉ ở những nơi khuất gió ẩm thì lượng mưa trung bình năm mới giảm xuống dưới 1000 mm.

Quy luật phân bố của lượng mưa trung bình nhiều năm không đều trong không gian, phụ thuộc vào độ cao địa hình và hướng của sườn đón gió ẩm. Các trung tâm mưa lớn được hình thành trên lãnh thổ như:

Móng Cái 2800 mm - 3000 mm, Bắc Quang 4765 mm, Hoàng Liên Sơn 2600 mm - 3000 mm, Mường Tè 2600 - 2800 mm, Hoành Sơn 3500 mm - 4000 mm, Thừa Lưu 2600 - 3662 mm, Trà Mi - Ba Tơ 2600 - 3400mm, Sông Hinh 2500 mm, Bảo Lộc 2876 mm. Hai trung tâm mưa lớn nhất nước ta là Bắc Quang và Ba Na đạt 5013 mm. Vùng có lượng mưa lớn kéo dài từ vĩ tuyến 15 0B đến 160B, gọi là vĩ tuyến nước.

Ngược lại, những trung tâm mưa nhỏ được hình thành ở những vùng thấp, khuất, hoặc nằm song song với hướng gió ẩm, đó là các vùng: An Châu 1000 mm - 1200 mm, Sơn La 1000 mm - 1300 mm, Mường Xén 800 mm - 1000 mmm, đặc biệt ở Phan Rang, Phan Rí chỉ đạt 650 mm. Vùng có lượng mưa nhỏ kéo dài ở Duyên Hải cực Nam Trung Bộ từ vĩ tuyến 100B đến vĩ tuyến 120B là vùng ít mưa khá điển hình ở nước ta.

Nhìn chung, lượng dòng chảy của sông ngòi ở nước ta cũng khá phong phú. Độ sâu dòng chảy nhiều năm đạt 998 mm. So với độ sâu dòng chảy ở vĩ độ 10 0 - 120B cùng vĩ độ với nước ta (207 mm) thì lượng mưa dòng chảy ở nước ta gấp 5 lần.

Quy luật phân bố của dòng chảy cũng tương tự như phân bố của mưa. Trên toàn lãnh thổ, các trung tâm dòng chảy lớn, nhỏ thường trùng với các trung tâm mưa lớn, mưa nhỏ.

Những vùng mưa lớn thì dòng chảy lớn như ở vùng Vài Lài thuộc tâm mưa lớn Móng Cái, độ sâu dòng chảy năm trung bình đạt tới 2334 mm; vùng Hoàng Liên Sơn, độ sâu dòng chảy năm cũng đạt tới 2180mm tại Tà Thàng, vùng Bắc Quang trên 3000 mm, Mường Tè trên 2000 mm, vùng Hoành Sơn tại sông Rào Cái, Rào Tro, độ sâu dòng chảy tới 1800 mm - 2400 mm. Vùng mưa lớn Bắc đèo Hải Vân, độ sâu dòng chảy cũng xấp xỉ 2000 mm, tại sông Hữu Trạch là 1973mm; vùng mưa lớn Trà Mi - Ba Tơ, Ba Na, độ sâu dòng chảy đều vượt trên 2000 mm; sông Bùng 2070mm, sông Tranh 2303 mm và sông Vệ 2372 mm.

Quá vào phía Nam có sông Hinh cũng đạt trên 1500 mm. Ở trung tâm mưa của sông Đồng Nai dòng chảy cũng đạt tới 1100 mm - 1428 mm.

Sự lặp lại phân bố của mưa cũng được thể hiện khá rõ đối với các trung tâm dòng chảy nhỏ như tại Chi Lăng 470 mm, Thác Vai 391 mm, Cửa Rào 583 mm, sông Luỹ 316 mm.

Như vậy, lượng dòng chảy và sự phân bố của nó trên lãnh thổ nước ta phụ thuộc chủ yếu vào sự phân bố của lượng mưa. Đặc điểm có tính quy luật đó được phản ánh rất rõ trên thực tế và trên bản đồ đường đồng mức và dòng chảy trung bình nhiều năm.

Yếu tố mưa không những ảnh hưởng đến dòng chảy mặt phân bố trong không gian như đã đề cập trên đây, mà còn ảnh hưởng đến tính biến động của dòng chảy theo thời gian.

Thật vậy, chế độ mưa ảnh hưởng lớn đến chế độ dòng chảy sông ngòi ở nước ta. Khí hậu nước ta có sự phân hoá theo mùa rõ rệt, trên toàn lãnh thổ, ở đâu cũng có một mùa khô với lượng mưa thấp hơn lượng bốc hơi và một mùa mưa. Do đó dòng chảy sông ngòi cũng tăng lên theo mùa, mùa lũ ứng với mùa mưa và mùa cạn ứng với mùa khô (ít mưa).

Chế độ nước sông điều hòa hay ác liệt có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất và đời sống. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa như ở nước ta vấn đề chế độ dòng chảy trong năm lại là vấn đề quan trọng hơn nhiều so với tổng lượng.

Nhìn chung, trên toàn lãnh thổ mùa mưa và chế độ dòng chảy cũng phân hoá theo không gian khá rõ:

Mùa mưa nhiều có xu thế chậm dần từ Bắc xuống Nam tính đến Phan Rí:

Bắc Bộ mùa mưa từ tháng IV, V đến tháng IX, X.

Bắc Trung Bộ, mùa mưa từ tháng VIII đến tháng XII.

Nam Trung Bộ từ Phan Rí mùa mưa từ tháng IX đến tháng XII.

Phan Rí và Nam Bộ mùa mưa từ tháng IV, V đến tháng X - XI.

Trung và Nam Tây Nguyên mùa mưa từ tháng V đến tháng X.

Tóm lại, trừ vùng duyên hải Trung Bộ có mùa mưa bắt đầu muộn nhất do địa hình của dãy Trường Sơn phối hợp với hoàn lưu đông bắc tạo nên; còn phần lớn lãnh thổ có mùa mưa bắt đầu từ tháng IV,V và kết thúc vào tháng X - XI.

Mùa mưa tuy dài ngắn khác nhau, dao động từ 4 đến 6 tháng, nhưng có tới 70 -90 % lượng mưa cả năm tập trung vào mùa mưa.

Xét trên toàn lãnh thổ, sự chi phối của chế độ mưa đối với chế độ dòng chảy là rõ ràng, nhưng dòng chảy sông ngòi còn chịu ảnh hưởng của cấu trúc mặt đệm lưu vực. Tuỳ thuộc vào khả năng điều tiết của lưu vực nhiều hay ít mà chế độ dòng chảy sông ngòi phụ thuộc vào chế độ mưa với mức độ khác nhau.

Nhìn chung, mùa lũ thường ngắn hơn mùa mưa 1 - 2 tháng và xuất hiện chậm hơn mùa mưa khoảng 1 tháng. Nhưng trong nhiều trường hợp, các nhân tố của mặt đệm có ảnh hưởng trội đối với chế độ dòng chảy. Đó là trường hợp các lưu vực sông vừa và nhỏ, lòng sông không thu nhận được toàn bộ nước ngầm.

Ở những vùng đá vôi nhiều hoặc đất bazan có tầng phong hoá sâu, khả năng thấm lớn thì chế độ dòng chảy thể hiện sự ảnh hưởng của mặt đệm rất rõ rệt. Như ở Tây Nguyên, do khả năng thấm của đất vào cuối mùa khô rất lớn, trong khi đó mưa đầu mùa lại cách đoạn, cường độ nhỏ, đã tạo ra một mùa lũ chậm hơn mùa mưa tới 1,5-2 tháng. Ảnh hưởng của nhân tố khí hậu giảm nhưng ảnh hưởng của mặt đệm tăng lên, trở thành nhân tố trội trong sự hình thành chế độ dòng chảy của sông ngòi.

2. Bốc hơi. Ngoài yếu tố mưa, yếu tố bốc hơi từ bề mặt lưu vực cũng tham gia trực tiếp vào cán cân nước của sông ngòi, ảnh hưởng rõ rệt đến sự hình thành của dòng chảy.

Ở nước ta có nền nhiệt độ cao, trên toàn lãnh thổ nhiệt độ trung bình năm đều vượt quá 210C ở miền Bắc, và 25 0C ở miền Nam. Nhiệt độ cao đã làm cho quá trình bốc hơi trên lưu vực sông từ Bắc vào Nam đều khá lớn. Lượng bốc hơi trung bình năm toàn lãnh thổ là 953mm, so với lượng mưa trung bình năm thì hệ số bốc hơi là 0,48, nhỏ hơn khoảng 35% so với cùng vĩ độ.

Tóm lại mưa và bốc hơi là hai yếu tố quan trọng nhất của khí hậu ảnh hưởng đến dòng chảy, nó quyết định tiềm năng dòng chảy sông ngòi ở nước ta. Nhân tố khí hậu có ảnh hưởng quyết định đến sự phân bố của dòng chảy trong không gian và phân bố theo thời gian.

Qui luật về sự ảnh hưởng của khí hậu đến dòng chảy ở nước ta đã được khẳng định khá rõ thông qua quan hệ giữa mưa và dòng chảy. So với các nhân tố khác thì quan hệ giữa mưa và dòng chảy chặt chẽ hơn cả do trong sự hình thành dòng chảy sông ngòi ở nước ta thì mưa đóng vai trò quyết định cả về lượng và chế độ dòng chảy trong năm cũng như phân bố trong không gian. Sự ảnh hưởng của phân bố khí hậu tới dòng chảy được định liệu qua thực tế tài liệu đo đạc và tính toán thường chiếm khoảng 80-90%. Các nhân tố ảnh hưởng khác thuộc mặt đệm của lưu vực ảnh hưởng đến dòng chảy khoảng từ 10-20%.

Từ kết quả nghiên cứu qui luật ảnh hưởng của khí hậu đối với dòng chảy đã cho phép thiết lập quan hệ giữa lượng mưa và lượng dòng chảy cho các khu vực trên toàn lãnh thổ. Nhìn chung hệ số tương quan đều rất cao, phần lớn đều đạt trên 0,85. Trong từng khu vực đều có hệ số tương quan cao; căn cứ vào phương trình tương quan được xác định cho phép suy từ lượng mưa ra lượng dòng chảy với sai số cho phép. Điều

52

này đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn đối với việc tính toán lượng dòng chảy cho những lưu vực không có tài liệu hoặc tài liệu dòng chảy chưa đủ dài.

Một phần của tài liệu Tính toán thuỷ văn (Trang 49 - 52)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(187 trang)