Hệ thống bôi trơn có nhiệm vụ lọc và cung cấp đầu bôi trơn đến các bề mặt chuyên động tương đối với nhau nhằm làm giảm lực ma sát và hao mòn. Hệ thống bôi trơn là loại bôi trơn hỗn hợp.
3.6.6.1 Cấu tạo
Cấu tạo hệ thông bôi trơn gồm các bộ phận sau :
Bơm dầu : dùng để cung cấp đầu từ cácte đến các bề mặt công tác của động cơ. Dầu được cung cấp nhờ hai bánh răng, đo trục khuýu của động cơ dẫn động. Khi
CBHD: Nguyễn Quan Thanh 20 SVTH: Nguyễn Thanh Tài
các bánh răng quay, dầu được hút từ cácte và điền đầy vào phần lõm giữa các răng và thân bơm, đầu được mang vào rãnh đấy ( nạp ). Từ đây, dầu chuyên động theo đường
ống dẫn chính của hệ thống bôi trơn.
Bầu Lọc nhớt : Theo chất lượng lọc người ta chia ra bầu lọc thô và bầu lọc tinh. Bau lọc thô chỉ lọc được cặn bắn có kích thước lớn hơn 0,03 mm. Bầu lọc tỉnh có
thé lọc được tạp chất có đường kính rất nhỏ đến 0,1 /zm.
Hình 3.15 Hệ thống bôi trơn cácte ước
1 cacte, 2 ống hút vào lọc sơ, 3 bơm dầu nhờn, 4 van ỗn áp, 5 bình lọc thô, 6 van an toàn, 7 đồng hồ báo áp suất dầu, 8 mach dau chính, 9 rãnh dầu đến cô chính trục khuỷu, 10 rãnh dau dén 6 đỡ trục cam, 11 bình lọc tỉnh, 12 két làm mát dau, 13 van ôn nhiệt, 14 đồng hồ nhiệt độ, 15 trục khuỷu động cơ khởi động, 16 thước đo mức dầu trong cácte.
3.6.6.2 Nguyên lý hoạt động:
Khi động cơ làm việc (hình 3.15) đầu nhờn từ cácte được bơm hút qua lưới
lọc đưa đến bình lọc thô rồi vào ống dẫn dầu chính từ đó dầu sẽ theo ống dầu phụ bôi
trơn các cô trục cam, trục đòn gánh và cô trục của trục khuỷu ở đầu và trong trục khuýu
CBHD: Nguyễn Quan Thanh 21 SVTH: Nguyén Thanh Tai
Nghiên cứu quy trình chăm sóc bảo dưỡng, kiếm tra, chân đoán và sửa chữa các dạng hư hỏng thường gặp trên xe cân trục
( trục khuỷu rỗng ) để bôi trơn cổ biên và các cỗ trục còn lại của trục khuyu. Mat khác, dầu cũng từ cổ biên qua lỗ nhỏ dẫn đầu theo rãnh dọc ở thanh truyền bôi trơn chốt
piston. Sau khi bôi trơn tất cả các bề mặt làm việc của chỉ tiết, đầu lại trở về cácte,
nghĩa là động cơ làm việc đầu sẽ lưu động tuần hoàn liên tục trong hệ thống bôi trơn.
Có một lượng nhỏ đầu sau khi qua bình lọc thô, ống dẫn vào bình lọc tỉnh rồi lại chạy về cácte.
Khi dầu bôi trơn ở cácte bị nóng hay đầu trong Ống có áp suất tăng đến một trị số nhất định ( 0,15-0,2MN/m2 ),van mở và dầu sẽ qua két dầu để làm mát hay giảm nhiệt độ rồi chạy về cácte.
3.6.7 Hệ thống làm mát
Hệ thống làm mát là hệ thống làm mát bằng phương pháp cưỡng bức tuần hoàn kín một vòng.
Hệ thống làm mát có nhiệm vụ làm giảm nhiệt độ của các chỉ tiết bị nóng lên trong quá trình làm việc và giữ cho động cơ ổn định ở nhiệt độ nhất định.
3.6.7.1 Cấu tạo các bộ phận chính
Bơm nước : có nhiệm vụ tạo dòng chảy tuần hoàn cho dung dịch nước làm mát trong áo nước của động cơ, tới két làm mát và về lại bơm. Bơm nước được dẫn động bởi trục khuỷu động cơ thông qua bộ truyền động đai.
Van hằng nhiệt : có nhiệm vụ đóng đường nước từ động cơ ra két làm mát khi động cơ còn nguội và mở đường nước tới két khi động cơ đạt nhiệt độ làm việc bình thường. Nhờ đó làm cho động cơ khi khởi động nhanh chóng tăng lên tới nhiệt độ làm
việc, đảm bảo tính kinh tế và tránh gây ô nhiễm môi trường ở giai đoạn đầu động cơ
làm việc. Van được lắp trên đường dẫn nước từ nắp máy ra két làm mát
CBHD: Nguyễn Quan Thanh 22 SVTH: Nguyén Thanh Tai
Piston đẩy
Vỏ van hằng nhiệt
Gàm biến thủy ngân
Lò xo hồi
Hình 3.16 Cấu tao van hàng nhiêt
Két nước: cấu tạo gồm nhiều cánh tản nhiệt được gắn xung quanh hệ thống ống dẫn nước. Nước chảy qua két sẻ được làm mát nhờ diện tích tản nhiệt lớn của các cánh
Re
—
a
pag | |
tan nhiét.
œ
8— th WAR 4 tt g 12 13 44
Hình 3.17 Hệ thống làm mát cưỡng bức tuần hoàn kính một vòng
1. Thân máy, 2. xylanh, 3. đường nước ra khỏi động cơ, 4. ống dẫn bọt nước, 5. van.
hằng nhiệt, 6. nắp rót nước, 7. két làm mát, 8. quạt gió, 9. puli, 10. ống nước nối tắt về bơm, 11. đường nước vào động cơ, 12. bơm nước, 13. két làm mát đầu, 14. ông phân
phôi nước
CBHD: Nguyễn Quan Thanh 23 SVTH: Nguyễn Thanh Tài
Nghiên cứu quy trình chăm sóc bảo dưỡng, kiếm tra, chân đoán và sửa chữa các dạng hư hỏng thường gặp trên xe cân trục
3.6.7.2 Nguyên lý hoạt động
Khi động cơ mới khởi động, nhiệt độ động cơ thấp, nước làm mát nguội, van điều nhiệt đóng hoàn toàn, nước từ động cơ không đi ra két mà quay trở vào động cơ, giúp cho động cơ mau nóng lên đến nhiệt độ thích hợp. Khi nhiệt độ động cơ tăng nhiệt
độ nước làm mát tăng, Tùy theo nhiệt độ nước mà van điều nhiệt sẽ mở hoàn toàn để
nước từ động cơ đi ra két hoàn toàn, hay van điều nhiệt mở một phần đề cho nước đi ra
két một phần. Thường nước làm mát động cơ có nhiệt độ thích hợp là 85°-90°.