RừNG Và SINH Kế - CHI TRẢ CHO DịCH VỤ SINH THÁI

Một phần của tài liệu kiến thức cơ bản về redd+ dựa vào cộng đồng tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên (Trang 54 - 60)

PHẦN II. THựC TIỄN REDD+ DựA VàO CộNG đồNG: CÁC KIếN THứC Cơ BẢN

BàI 4: RừNG Và SINH Kế - CHI TRẢ CHO DịCH VỤ SINH THÁI

Ma trận hợp phần tập huấn 2, Bài 4: Rừng và sinh kế - Chi trả cho dịch vụ sinh thái - PES Thời gian dự kiến: 1,5 giờ - 3 giờ (phụ thuộc vào phương pháp sử dụng)

Mục tiêu:

Vào cuối buổi học, các học viên có thể

Hiểu được khái niệm về PES đủ để thảo luận và quyết định liệu PES có thể là một lựa chọn để tạo ra ra thu nhập từ rừng.

Chủ đề và các câu hỏi chính Phương pháp Tài liệu

PES là gì? Một là: giải thích PES như là kể một câu chuyện về PES. Mỗi yếu tố được thể hiện như một bản vẽ riêng biệt và thể hiện từng mảnh một, sau đó ghép chúng thành một câu chuyện hoàn chỉnh.

Một cách khác là sử dụng những con rối, tương tự như truyền thống wayangkulit ở Indonesia ( Xem phụ lục 2).

Nếu bạn muốn kiểm tra xem những người tham gia đã có thể hiểu được các khái niệm hay không, bạn có thể yêu cầu một số người trong số họ bắt chước chơi vào cuối buổi học. Bạn có thể chia học viên thành các nhóm và để cho mỗi nhóm trình bày và có một cuộc thi xem nhóm nào nào trình bày

“tốt nhất”. Quyết định trên các tiêu chí cho những gì là “tốt nhất”, đưa ra đánh giá với giải thích rõ ràng.

Nếu PES mới đối với bạn thì sẽ hữu ích nếu chuẩn bị một kịch bản bằng văn bản với chữ lớn mà bạn có thể dán bên dưới hoặc bên cạnh màn hình. Nếu bạn đã quen thuộc với khái niệm này, bạn có thể tường thuật lại một cách đơn giản.

Bản vẽ các vật liệu của PES

Để làm cho con rối chắc, dài và mỏng như que dính thịt nướng hoặc lát tre mỏng, giấy hoặc bìa cứng dày hoặc miếng giấy/vải nhỏ ( vật thể từ thiên nhiên như lá – kiểm tra xem các vật này có được chấp nhận về mặt văn hóa để sử dụng với các mục đích tập huấn không), bút đánh dấu, than hoặc bất kỳ vật có màu tự nhiên nào được sử dụng trong cộng đồng;

keo dán hoặc băng keo hoặc dây để gắn các vật thể lên gỗ. Làm sân khấu diễn kịch rối: bàn hoặc chăn.

Để có bóng tối có thể diễn kịch rối vào ban đêm hoặc địa điểm tối, màu sắc sáng (tốt hơn là màu trắng hoặc màu be), một mảnh vải rất mỏng có thể nhìn xuyên qua ít nhất là 1m vuông hoặc lớn hơn nếu diễn ra trong một địa điểm lớn; đèn pin lớn, ánh sáng mạnh hoặc nhiều đèn pin.

PES phù hợp với điều kiện như

thế nào? Ma trận A có thể được sử dụng với hai cột, một cột tượng trưng cho tích cực và cột còn lại tượng trưng cho tiêu cực. Các hàng trong mỗi cột nên được trình bày bằng cả ngôn ngữ và hình ảnh. Đầu tiên trình bày một ma trận trống, sau đó gợi nhắc câu trả lời cho các học viên và thảo luận về chúng, điền vào ma trận với các từ hoặc hình ảnh thích hợp trong khi các cuộc thảo luận đang diễn ra..

Minh họa các điều kiện tích cực và tiêu cực trên giấy Ao hoặc dùng bút đánh dấu giấy kraft ( có thể là hai màu, mỗi cột 1 màu).

Ma trận hợp phần tập huấn 2, Bài 4: Rừng và sinh kế - Chi trả cho dịch vụ sinh thái - PES Thời gian dự kiến: 1,5 giờ - 3 giờ (phụ thuộc vào phương pháp sử dụng)

Các vấn đề khi thực hiện một

chương trình PES là gì? Tổ chức thảo luận nhóm để tất cả học viên có thể có cơ hội và kinh nghiệm để nói về các vấn đề. Mỗi nhóm có thể được chỉ định một vấn đề thảo luận. Nên hỏi những người tham gia nếu họ thấy các vấn đề khác ( xem phụ lục 2).

Hoặc chia thành nhóm và mỗi nhóm sẽ được yêu cầu đóng một tình huống và trả lời “Tôi sẽ làm những gì trong trường hợp này?” Các nhóm có thể được hình thành ngẫu nhiên, miễn là số thành viên của các nhóm không đồng đều.

Tham khảo ma trận từ các hoạt động trước đó. Bạn có thể viết trước các vấn đề lên giấy kraft để làm giáo cụ trực quan. Hãy sẵn sàng để bổ sung thêm ý kiến học viên. Bút đánh dấu, băng keo hoặc băng dính có thể tái sử dụng.

PES có khả thi và thích hợp với

cộng đồng của bạn? Các buổi học về PES có thể kết thúc bằng một cuộc thảo luận nhóm, đánh giá nhanh các khả năng cho PES bao gồm những thể loại cụ thể của PES trên địa bàn. Hoặc có thể tổ chức một cuộc thảo luận nhóm để xác định các hoạt động tạo thu nhập bền vững mà các thành viên cộng đồng có thể làm trong khi vẫn có thể bảo vệ hoặc ít nhất không gây hại tới rừng

Ngoài ra, có thể đóng vai ủng hộ hoặc phản đối PES

Không có

Các dịch vụ sinh thái hoặc môi trường hay nói một cách đơn giản đó là những lợi ích mà người dân có được từ hệ sinh thái. Nói chung, dịch vụ sinh thái là việc duy trì cân bằng sinh thái. Thiên nhiên có một hệ thống giữ mọi thứ trong đó hài hòa với nhau như chim ăn trái cây và giúp cho các hạt phân tán và do đó cho phép cây mới phát triển để những con chim thế hệ sau cũng sẽ có một cái gì đó để ăn. Như bướm rung trên hoa giúp phấn hoa phát tán cho hoa mới để sinh sôi và điều này bảo đảm rằng những con bướm mới cũng có hoa để dập dờn. Khi cây cối và thảm thực vật sinh sôi nảy nở sẽ giúp cung cấp thực phẩm và chỗ làm tổ cho côn trùng, chim và động vật khác, giúp duy trì độ phì nhiêu của đất và sự trong lành của nước. Tất cả đều có lợi cho động vật và con người. Giữ đa dạng sinh học một cách nguyên vẹn chính là một dịch vụ sinh thái.

Đa dạng sinh học mang lại nhiều lợi ích cho người dân. Cây giúp cung cấp nguồn nước dồi dào cho các trang trại, chúng lọc sạch nước để uống và kiểm soát lũ. Chim và động vật còn giúp kiểm soát sâu bệnh ( như côn trùng, diệt chuột). Người bản địa thường sống trong các khu vực giàu đa dạng sinh học và đã sử dụng và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên giúp bảo tồn môi trường thiên nhiên và đa dạng sinh học. Tuy nhiên, với mức tăng trưởng dân số nhanh chóng, nhu cầu nâng cao thu nhập tiền mặt và cơ hội sinh kế càng khan hiếm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang ngày càng gia tăng.

Để khắc phục những khó khăn ngày càng tăng cho các cộng đồng bản địa và những người sống phụ thuộc vào rừng khác, cần phải nỗ lực để kiềm chế việc khai thác quá mức và bảo đảm sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, từ đó để bảo tồn môi trường thiên nhiên và đa dạng sinh học. Nói cách khác: bảo tồn môi trường ám chỉ chi phí cho người dân cư trú tại đó. Ý tưởng đằng sau Chi trả cho dịch vụ môi trường (PES) là: những người khác, những người được hưởng lợi từ các nỗ lực bảo tồn của các cộng đồng trong một khu vực cụ thể, phải bồi thường cho cộng đồng những thiệt hại trong quá trình họ nỗ lực bảo tồn thiên nhiên. Đây là sự ghi nhận của các

“dịch vụ” mà cộng đồng cung cấp trong khi bảo vệ môi trường.

Bởi vì REDD+ là một loại của PES, sẽ rất giá trị cho chúng ta khi tìm hiểu về kinh nghiệm rút ra từ việc thực hiện các hình thức khác của PES. Vì vậy, chúng ta sẽ thảo luận về PES chi tiết hơn ở đây.

FORESTS AND LIVELIHOOD – PAYMENT FOR ECOSYSTEM SERVICES

Chi trả cho dịch vụ sinh thái là gì?

Người dân bản địa, những người sống trong các khu vực rừng nói chung có nhận thức về lợi ích mà những người sống bên ngoài của vùng đất của họ không nhận thức được. Thực tế là, bên ngoài cộng đồng của họ, hầu hết - nếu không phải tất cả - rừng đều được quy ra giá trị thương mại hoặc thị trường. Điều này có nghĩa là mọi thứ ( như hàng hóa và dịch vụ) có thể được đo bằng tiền. Đây là quan điểm mà các khái niệm của PES dựa vào.

PES có thể định nghĩa đơn giản là một cách để đảm bảo rằng những người cung cấp hàng hóa và dịch vụ môi trường được những người được hưởng lợi từ những hàng hóa và dịch vụ đó trả tiền.

Việc thanh toán này không phải lúc nào cũng bằng tiền mặt mà có thể bằng hình thức bồi thường khác hoặc là phần thưởng. Mục đích của những khoản chi trả hoặc bồi thường này nhằm khuyến khích các thành viên cộng đồng sử dụng đất đai một cách bền vững thân thiện với môi trường hơn.

Một chương trình PES là

• Một giao dịch tự nguyện.

• Một dịch vụ môi trường được xác định rõ.

Được (ít nhất là một) người “mua” dịch vụ môi trường từ (ít nhất là một) người cung cấp dịch vụ môi trường khi và chỉ khi các nhà cung cấp dịch vụ môi trường có thể đảm bảo việc cung cấp các dịch vụ môi trường

Ví dụ về một chương trình PES: Bảo vệ đầu nguồn

Trong số các loại hình PES đề cập ở trên, bảo vệ đầu nguồn là phổ biến nhất. Những người sống ở hạ lưu rõ ràng được hưởng lợi từ các nguồn nước do một khu rừng (dịch vụ môi trường) ở thượng nguồn cung cấp, đó là nơi sinh thủy và làm sạch nước. Ví dụ, một công ty nước khoáng đóng chai (người sử dụng dịch vụ môi trường) sẽ trả tiền người dân sống ở thượng nguồn (nhà cung cấp dịch vụ môi trường) để giữ rừng nguyên vẹn, rừng này sẽ luôn giữ cho một dòng nước khoáng bền vững cho hiện tại và cho cả tương lai. Một dự án quản lý lưu vực sông được coi là có tiềm năng lớn để thực hiện PES vì nó bao phủ một khu vực rộng lớn, dễ nhận biết và so sánh, dễ dàng xác định các lợi ích, người mua, người bán và chi phí cho việc thỏa thuận (chi phí giao dịch) tương đối thấp.

động cơ theo đuổi một dự án PES

Đã có nhiều chương trình PES được đưa vào thực tiễn. Những dự án sau đây đã thu được lợi ích thương mại:

• Bảo vệ lưu vực, chẳng hạn như bảo vệ rừng và tái trồng rừng ở các lưu vực các con song, hoặc trồng cây dọc theo đường phân thủy.

• Bảo vệ đa dạng sinh học, chẳng hạn như bảo vệ một khu vực có đa dạng sinh học cao.

• Vẻ đẹp cảnh quan, chẳng hạn như bảo tồn một khu du lịch sinh thái.

• Bảo tồn hoặc lưu giữ carbon, ví dụ trong REDD hoặc trong Cơ chế Phát triển sạch đã được thảo luận

Nhưng động lực của người mua có thể không nhất thiết là động lực của người cung cấp dịch vụ (ví dụ cộng đồng bảo vệ đầu nguồn). Động lực cho bảo tồn (một dạng dịch vụ) có thể không nhất thiết là việc bảo vệ môi trường, hoặc ít nhất không chỉ là vậy. Nó có thể được nhìn nhận như:

• Một nguồn thu nhập tiền mặt cho nhu cầu hàng ngày.

• Một nguồn tài nguyên (không phải tiền mặt) để tồn tại.

FORESTS AND LIVELIHOOD – PAYMENT FOR ECOSYSTEM SERVICES

• Một biểu hiện của giá trị văn hóa và xã hội (như giá trị văn hóa của một khu rừng cụ thể, nơi các nghi lễ được thực hiện, nơi an táng, nơi linh hồn trú ngụ, vv)

Tuy nhiên, việc định giá tiền mặt cho một dịch vụ môi trường có thể giúp làm cho một cộng đồng có ý thức về tầm quan trọng của môi trường và khuyến khích họ để bảo vệ môi trường.

Nghiên cứu về một dự án PES trên thực tế chỉ ra rằng, khái niệm PES xuất hiện phù hợp nhất dưới các điều kiện sau:

• Khu vực chi trả nhỏ.

• Nguy cơ tới môi trường không nguy cấp, sự xuống cấp của môi trường có thể quan sát được hoặc nhận thức được, nhưng không quá rộng. Nguy cơ cao đồng nghĩa với chi phí cao, do đó những khu vực như thế không hấp dẫn đối với người mua.

Một số vấn đề cơ bản khi tiến hành một dự án PES

A number of critical issues have emerged in implementing PES schemes.

• Tác động không đồng đều. Khi một chương trình PES được đưa ra để thực hiện, có thể có thay đổi trong nội bộ những người có quyền tiếp cận các nguồn lợi và người ra quyết định trong khu vực dự án. Người nghèo đặc biệt bị hạn chế tiếp cận tới các nhu cầu hàng ngày (thực phẩm và chất đốt). Do đó, tác động của PES có thể không đồng đều trong cộng đồng.

• Phân phối lợi ích không đồng đều. PES là một công việc kinh doanh và do đó nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận. Để tạo ra lợi nhuận lớn hơn, người ta mong muốn cắt giảm chi phí thực hiện càng nhiều càng tốt. Vì vậy, người bắt đầu một chương trình PES (thường là người mua dịch vụ) có thể không tính tới các chi phí nhằm tăng cường năng lực cho các thành viên cộng đồng có hoàn cảnh khó khăn hơn để họ có thể tham gia. Trong tình hình như vậy, những người đã có năng lực (không phải là thành viên có hoàn cảnh khó khăn nhất của cộng đồng) sẽ là những người được hưởng lợi. Điều này có nghĩa rằng không phải tất cả sẽ được hưởng lợi như nhau.

• Ai sẽ nhận được thanh toán hoặc lợi ích? Liệu sẽ chi trả cho các cá nhân trong cộng đồng hay cho toàn thể cộng đồng?

• Thanh toán bằng tiền mặt hay hiện vật? Nếu thanh toán bằng hiện vật như xây dựng một con đường hay một phòng khám sức khỏe, liệu sẽ có hỗ trợ cho các chi phí bảo trì và nguồn nhân lực cần thiết hay không?

• Chương trình PES có thể quyết định trả tiền những người đang có những sinh kế làm hại cho môi trường để họ dừng các sinh kế này lại hay không? Nếu có thì liệu mọi người có cho rằng “kẻ phá hủy” cũng được thưởng hay không? Và như vậy thì có khuyến khích một số người khác lại bắt đầu các hủy hoại môi trường với mong muốn rằng họ sẽ được trả tiền để dừng lại hay không?

• Một số người có thể nhận tiền chi trả cho những công việc mà họ đã làm cho cộng đồng theo phong tục địa phương. Nếu bây giờ họ lại tiếp tục được trả tiền để thực hiện công việc tương tự thì các giá trị xã hội, văn hóa này có thể bị suy giảm đi không?

• Nên thanh toán khi nào? Khi nào thì có nhìn thấy rõ ràng rằng các dịch vụ môi trường đã sẵn sàng để cung cấp? Người mua và nhà cung cấp dịch vụ có đồng ý về những “thực tế rõ ràng” hay không? Cái gì sẽ xảy ra nếu dịch vụ này đã sẵn sàng nhưng có thể lại có những yếu tố có thể ảnh hưởng tới kết quả của dịch vụ, liệu người mua có đồng ý thanh toán hay không?

Một số điều kiện đã được xác định để làm rõ khả năng thành công của PES cho việc bảo vệ môi trường lẫn xóa đói giảm nghèo. Trong số đó có:

• Các nông hộ nhỏ là các nhà cung cấp dịch vụ.

• Có sẵn các chính sách và thủ tục hỗ trợ.

• Vấn đề xóa đói giảm nghèo được giải quyết một cách rõ ràng.

• Quyền về tài nguyên và quyền sở hữu được bảo đảm.

• Quyền và trách nhiệm của tất cả các bên, bao gồm cả bên trung gian được xác định rõ ràng.

• Lệ phí được định giá, thu nhập minh bạch và giải ngân có hiệu quả.

• Các chi phí của việc trao đổi (gọi là “chi phí giao dịch”) giữa người mua và nhà cung cấp dịch vụ được giảm thiểu.

• Chương trình PES được thiết kế để hoạt động ở cấp quốc gia và địa phương độc lập với nguồn lực tài chính dài hạn bên ngoài.

Vì các dự án PES là hoàn toàn khả thi ở quy mô nhỏ, các chương trình PES thường được coi là một hoạt động địa phương. REDD+ là một trong những hình thức của PES, nhưng REDD+ có quy mô lớn hơn ( quốc gia và toàn cầu). Trong một số dự án REDD+ tùy theo tính chất của dự án, các nhà cung cấp dịch vụ và người mua có thể sống xa nhau, thực tế là trên các châu lục khác nhau.

Kinh nghiệm từ PES hiện tại cho rằng sự cách trở này có thể gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện.

Như với tất cả PES, giải quyết các vấn đề về quyền là rất quan trọng. Theo REDD+, người sống ở miền rừng núi được trả tiền để duy trì hoặc tăng lượng carbon thông qua các quỹ hoặc bằng cách kinh doanh tín chỉ cácbon. Tuy nhiên, để điều này có hiệu lực, cần giải quyết quyền đất đai và quyền sở hữu carbon. Ai sở hữu đất? Ai sở hữu carbon? Nếu không rõ ràng trong việc giải quyết các vấn đề về quyền sở hữu, bất kỳ chương trình PES nào cũng có thể trở thành một mối đe dọa cho các cộng đồng bản địa và mang lại lợi ích cho người ngoài hơn là người dân bản địa

CHI TRẢ DịCH VỤ MôI TRƯờNG: NGƯờI IKALAHAN LàM Gì?

Trông coi cả một khu rừng có thể tốn kém. Vấn đề là các cộng đồng trông coi rừng phải trả tiền cho tất cả các chi phí nhưng các cộng đồng khác, thường là ở rất xa lại được hưởng lợi do những khu rừng này mang lại. Điều này là không công bằng nên cần thiết phải có những quy định về việc đền bù cho cộng đồng lâm nghiệp làm công việc bảo vệ rừng. Ví dụ, người ta mong muốn một cộng đồng sống ở rừng đầu nguồn nước phải bảo vệ rừng nhưng nguồn nước đó lại được sử dụng để làm thuỷ điện hoặc tưới tiêu cho các trang trại ở một tỉnh, huyện khác cách xa rừng đó 20, 50 hoặc thậm chí 100km. Tỉnh, huyện được hưởng lợi từ rừng có thể không muốn chi trả cho dịch vụ mà họ được hưởng.

Những con sông của người Ikalahan sống tại miền Bắc Philipin đang giữ kỷ lục về lượng nước dồi dào chảy vào hồ, đập nước ở hạ lưu. Họ đã làm việc với chính phủ nhằm dàn xếp với những người được hưởng lợi từ nguồn nước tưới tiêu để mỗi năm họ phải trả một số tiền nhỏ vào một quỹ. Quỹ này sẽ được trao cho người Ikalahan để đổi lấy nước sạch. Điều này có thể phải mất một vài năm nhưng quá trình này vẫn cần phải được xúc tiến.

Một cộng đồng miền núi ở Mindanao đã được nhận các khoản thanh toán thường xuyên cho nước chảy vào một thành phố lớn ở hạ lưu. Điều này đã được thực hiện nhờ một hợp đồng đặc biệt của thành phố với những người sống ở miền thượng lưu sông..

Và điểm cuối cùng về Chương trình PES …

Đề án PES phụ thuộc vào giá trị kinh tế của tự nhiên. Nó dựa trên thực tiễn là một ai đó sẽ phải trả tiền công cho những công việc bảo vệ rừng, bởi vì họ được hưởng lợi từ những khu rừng được bảo tồn này. Nhưng những người khác nhau với nền văn hóa khác nhau lại có những quan điểm khác nhau về thế giới và môi trường. Và họ cũng có quan niệm khác nhau về giá trị của rừng. Giá trị của rừng và các giá trị khác của môi trường tự nhiên không phải lúc nào cũng có thể đo bằng tiền. Vì vậy, có những căng thẳng phát sinh từ thực tế rằng nhiều dân tộc bản địa vẫn không nhận ra tầm quan trọng của môi trường liên quan tới tiềm năng tạo ra thu nhập được tính bằng tiền.

Một phần của tài liệu kiến thức cơ bản về redd+ dựa vào cộng đồng tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên (Trang 54 - 60)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(222 trang)