Lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu

Một phần của tài liệu VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI (Trang 42 - 50)

8. Phương pháp nghiên cứu

1.2. Lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu

Thuyết vai trò cho rằng mỗi cá nhân đều chiếm giữ các vị trí nào đó trong xã hội và tương ứng với các vị trí đó là các vai trò. Vai trò bao gồm một chuỗi các luật lệ hoặc các chuẩn mực như là một bản kế hoạch, đề án chỉ đạo hành vi. Những vai trò chỉ ra cụ thể cách thức nhằm đạt được mục tiêu và

hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời chỉ ra những nội dung hoạt động cần thiết đòi hỏi phải có trong một bối cảnh hoặc tình huống cho sẵn. Thuyết cũng cho rằng, một phần các hành vi xã hội hàng ngày quan sát được chỉ đơn giản là những việc mà con người thực hiện trong vai trò của họ

Lý thuyết này còn khẳng định rằng, hành vi con người chịu sự chỉ đạo của những mong muốn của cá nhân họ hoặc từ mong muốn của người khác.

Những mong muốn cho mỗi vai trò thì khác nhau nhưng phù hợp với vai trò mà cá nhân thực hiện hoặc trình diễn trong cuộc sống hàng ngày của họ. Lý thuyết này đề cập rằng, với cùng một hành vi, có thể chấp nhận ở vai trò này nhưng lại không được chấp nhận ở vai trò kia. Khi vai trò phù hợp với khả năng của cá nhân thì người đó đảm trách tốt vai trò được phân công. Thuyết này cũng cho rằng muốn thay đổi hành vi của một cá nhân, cần tạo cơ hội cho họ thay đổi vai trò của mình.

Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng lý thuyết vai trò để phân tích, đánh giá vai trò của của cán bộ xã hội (NVCTXH bán chuyên nghiệp) trong việc biện hộ, kết nối, vận đồng nguồn lực trợ giúp NCT trong các hoạt động CSSK, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho NCT đang sinh sống tại địa bàn xã Long Xuyên, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội. Trên cơ sở thực trạng thực hiện vai trò bán chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên xã hội (cán bộ chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội đang có hoạt động chăm sóc - trợ giúp NCT) đề xuất vai trò chuyên nghiệp của NVCTXH trong hoạt động chăm sóc – trợ giúp NCT tại địa phương.

Thông qua việc tìm hiểu về các vai trò kỳ vọng, vai trò chủ quan và vai trò khách quan, trong nghiên cứu này tác giả xác định như sau:

Vai trò kỳ vọng: Là những mong đợi về vai trò, về các hoạt động kết nối của NVCTXH, nhằm chăm sóc – trợ giúp NCT hiện đang sinh sống tại xã Long Xuyên có thể thuận lợi hơn khi tham gia các hoạt động chăm sóc - trợ giúp NCT tại địa phương.

Vai trò chủ quan: Là sự đánh giá của chính NVCTXH, họ là những người trực tiếp tham gia vào các hoạt động biện hộ, vận động, kết nối tổ chức các hoạt động chăm sóc - trợ giúp cho NCT tại địa bàn xã Long Xuyên.

Vai trò khách quan: Là sự đánh giá của NCT về các hoạt động mà NVCTXH đã và đang triển khai chăm sóc - trợ giúp cho NCT. Nhằm mục đích thông qua các hoạt động trợ giúp, NCT có thể thuận lợi hơn trong việc tiếp cận những nguồn lực trợ giúp từ cộng đồng và NVCTXH.

Như vậy, trong nghiên cứu này tác giả sử dụng thuyết vai trò nhằm vận dụng phân tích vai trò hiện có của nhân viên xã hội (vai trò bán chuyên nghiệp) và trên cơ sở những tồn tại, khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện vai trò này, nghiên cứu đề xuất vai trò chuyên nghiệp của NVCTXH trong hoạt động chăm sóc – trợ giúp NCT, được thể hiện trong từng mảng can thiệp như: CSSK, chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần. Vì vậy, vai trò của NVCTXH trong nghiên cứu này giữ vai trò chủ đạo, là vai trò hạt nhân để phát triển các hoạt động chăm sóc - trợ giúp NCT.

1.2.2. Lý thuyết nhu cầu [60]

Để hiểu rõ hơn về “Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong chăm sóc người cao tuổi”, vận dụng lý giải của A.Maslow về nhu cầu của con người trong cuộc sống; nghiên cứu thấy rằng NCT có nhu cầu được chăm sóc (trong đó có CSSK, chăm sóc về đời sống vật chất và tinh thần); nhận được sự quan tâm, chăm sóc, trợ giúp từ phía cộng đồng; được thể hiện và khẳng định bản thân khi tham gia các hoạt động chăm sóc - trợ giúp tại cộng đồng;

được giao lưu và chia sẻ về đời sống vật chất - tinh thần với NCT khác tại nơi mình sinh sống, nhu cầu được thuộc về một nơi nào đó, được an toàn; nhu cầu được bảo vệ và được chăm sóc, trợ giúp về mọi mặt.

Tiếp cận thuyết nhu cầu là một hướng tiếp cận theo quan điểm nhân văn hiện sinh, đánh giá cao khả năng của con người và bản thân họ tự quyết định lấy cuộc sống của mình. Tiếp cận thuyết nhu cầu cho thấy con người cần phải

đảm bảo được những nhu cầu cơ bản. Mọi vấn đề sai lệch xã hội đều do nhu cầu không được giải quyết. Trị liệu không phải là để giải quyết nhu cầu mà giúp thân chủ phân tích nguyên nhân vì sao nhu cầu không được đáp ứng và để đáp ứng nhu cầu này thân chủ cần có những điều kiện gì. Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý cũng như hành vi của con người. Nhu cầu là yếu tố tất yếu, cần thiết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân.

Nếu như nhu cầu được thỏa mãn thì sẽ tạo nên cảm giác thoải mái và an toàn cho sự phát triển và ngược lại, nếu không được đáp ứng thì sẽ gây nên sự căng thẳng và có thể dẫn tới những hậu quả nhất định gây mất “thăng bằng”

trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao. Vì thế nhu cầu là động lực bên trong kích thích cá nhân hành động, quyết định mọi hành động của con người.

Theo A.Maslow thì  nhu cầu của con người được chia làm hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản (basic needs) và nhu cầu bậc cao (meta needs) con người luôn có những nhu cầu nhất định từ nhu cầu sơ cấp đến các nhu cầu cao cấp. Chính vì vậy, mà theo A.Maslow thì con người dù có khác nhau về nhiều khía cạnh, nhiều đặc điểm riêng nhưng đều có các nhu cầu trên, các nhu cầu đó được sắp xếp từ thấp đến cao, khi một nhu cầu được thỏa mãn thì các nhu cầu khác tạm thời lắng xuống và khi nhu cầu này được thỏa mãn thì nhu cầu khác lại xuất hiện.

Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người như nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục. Là nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được. Đặc biệt là đối với những nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội như nhóm NCT, bởi họ bị hạn chế nhiều hoạt động và các chức năng xã hội bị thiếu hụt. Maslow quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu

khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.

Nhu cầu về an toàn: An ninh và an toàn có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người. Bởi thế an toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm lý, an toàn nhân sự… Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người, đối với NCT nhu cầu đó đóng vai trò rất quan trọng, giúp giảm thiểu các rủi ro trong đời sống đối với NCT, việc tham gia hoạt động chăm sóc – trợ giúp tại cộng đồng địa phương nơi mình sinh sống sẽ giúp NCT được sống trong môi trường được chia sẻ, họ cảm thấy được thoải mái, an toàn do nhận được sự quan tâm, chăm sóc và trợ giúp của NVCTXH và những NCT khác.

Những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận: Do con người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được người khác thừa nhận.

Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ bị cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin, lòng trung thành giữa con người với nhau. Nội dung của nhu cầu này bao gồm các vấn đề tâm lý như: Được dư luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán thưởng, ủng hộ, mong muốn được hòa nhập, lòng thương, tình yêu, tình bạn, tình thân ái là nội dung cao nhất của nhu cầu này.

Nhu cầu được tôn trọng: Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: lòng tự trọng và được người khác tôn trọng: Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muốn giành được lòng tin, có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu hiện và tự hoàn thiện bản thân. Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy tín, được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự… Tôn trọng là được người khác coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt công việc được giao. Do đó, nhu cầu được tôn trọng là điều không thể

thiếu đối với mỗi con người. đối với NCT họ với những vốn kinh nghiệm, quan hệ xã hội họ tạo dựng giai đoạn còn trẻ họ mong muốn bản thân được người khác tôn trọng, coi trọng và trợ giúp họ, đáp ứng nhu cầu này sẽ tăng cường được lòng tin và sự tham gia của NCT.

Nhu cầu tự thể hiện: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào đó. Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu…) nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài…), nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân, những nhu cầu này được thể hiện rất mạnh mẽ trong tất cả hoạt động mà NCT tham gia, tham gia hoạt động tinh thần văn hóa - văn nghệ - TDTT để chứng minh khả năng của bản thân...

Vận dụng lý thuyết này trong nghiên cứu sẽ góp phần lý giải, phân tích những nhu cầu cơ bản của NCT khi tham gia hoạt động chăm sóc – trợ giúp tại cộng đồng, đánh giá được những nhu cầu từ thấp đến cao của NCT, từ nhu cầu về vật chất: ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp... đến những nhu cầu cơ bản ở bậc cao hơn như: nhu cầu được chăm sóc sức khỏe, được khám chữa bệnh, được tiếp cận các chính sách trợ giúp, dịch vụ khi tham gia mọi hoạt động và khi tham gia các hoạt động chăm sóc – trợ giúp thì NCT có được thỏa mãn những nhu cầu đó hay không? Khi NCT tìm cách thỏa mãn những nhóm nhu cầu này cũng là khi họ gặp phải những thuận lợi, khó khăn có tác động trực tiếp tới bản thân họ như thế nào. Lý thuyết góp phần chỉ ra nhu cầu chung và những nhu cầu cốt lõi về hoạt động chăm sóc - trợ giúp NCT tại xã Long Xuyên;

những ảnh hưởng của hoạt động này đến đời sống của NCT; gia đình, cộng đồng đã có những hoạt động can thiệp, trợ giúp như thế nào để đáp ứng những nhu cầu của NCT.

1.2.3. Lý thuyết hệ thống [60]

Thuyết hệ thống nhấn mạnh vào sự tương tác giữa con người với môi

trường sinh sống của mình. Vì vậy, nguyên tắc trực tiếp, chủ đạo của lý thuyết này là cuộc sống bình thường của con người phụ thuộc vào môi trường xã hội hiện tại của họ. Con người luôn tồn tại trong các hệ thống khác nhau, bao gồm các hệ thống lớn và các tiểu hệ thống nó có tác động trực tiếp tới con người sống trong hệ thống đó.

Lý thuyết hệ thống có hai nhóm là lý thuyết hệ thống chung và lý thuyết hệ thống sinh thái, lý thuyết hệ thống ứng dụng các khái niệm về hệ thống nói chung coi mỗi hệ thống có một ranh giới nhất định; một hệ thống có thể bao gồm các hệ thống phụ và nằm trong một hệ thống lớn hơn, các hệ thống có thể trao đổi với nhau (hệ thống mở) hay khép kín (hệ thống đóng);

một tác động đầu vào sẽ dẫn tới một sản phẩm đầu ra qua hệ thống; một hệ thống có thể ổn định hay biến động. Lý thuyết hệ thống nhấn mạnh yếu tố xã hội, lý thuyết này được sử dụng để làm việc với các cá nhân, nhóm và cộng đồng, quan tâm chính của nó là làm thế nào cho các cá nhân, nhóm và cộng đồng có hành vi phù hợp với xã hội.

Hệ thống tự nhiên hoặc không chính thức: gia đình, bạn bè, nhóm người lao động tự do…

Hệ thống chính thức: nhóm cộng đồng, tổ chức đoàn, đội, công đoàn…

Hệ thống xã hội: bệnh viện, trường học…

Công tác xã hội theo lý thuyết hệ thống nhằm giúp cho NCT phù hợp hơn với xã hội, với môi trường xung quanh, bằng cách giảm bớt tác nhân gây căng thẳng, tăng cường các nguồn lực cá nhân, xã hội và sử dụng các nguồn lực này tốt hơn để có những chiến lược đương đầu tốt hơn với môi trường đáp ứng tốt hơn nhu cầu của NCT.

Mô hình hệ thống sinh thái bao gồm: Cộng đồng, gia đình cha mẹ, gia đình, cá nhân, các hệ thống bên trong.

Quan điểm cá nhân trong môi trường: Có một hệ thống trật tự cơ bản của đời sống; Trật tự xã hội là bền vững và tiến trình động; Mọi hành vi của

NCT đều có tính mục đích; Mọi mô hình tổ chức xã hội chăm sóc – trợ giúp NCT đều biểu hiện sự tự duy trì và các đặc điểm phát triển; Mọi tổ chức xã hội đều mạnh, lớn hơn việc tổng hợp các bộ phận.

Quan điểm của cá nhân trong môi trường: Phúc lợi là bản chất của con người và các tổ chức xã hội (đây là nền tảng quan điểm sức mạnh); Mọi tổ chức xã hội đều được mô tả, nghiên cứu giống như các hệ thống xã hội; Quan hệ xã hội là nền tảng cho mọi hệ thống xã hội; Tiến trình trợ giúp được nhìn nhận trong sự hình thành một tiến trình xã hội tự nhiên.

Xã hội càng hiện đại thì càng nảy sinh những áp lực cuộc sống: Sự chuyển đổi cuộc sống ví dụ như các giai đoạn phát triển, sự biến đổi về vị thế và vai trò, tái cấu trúc không gian cuộc sống. Những áp lực về môi trường; ví dụ như: những cơ hội bất bình đẳng những điều khắt khe và những tổ chức không phản hồi. Các tiến trình cá nhân ví dụ việc khám phá, kỳ vọng trái ngược nhau.

Quan niệm xã hội về vị thế và vai trò; các chức năng và cấu trúc của cơ sở xã hội; các luận điểm về mặt chuyên môn; tăng cường khả năng xây dựng và giải quyết vấn đề cho nhóm đối tượng.

Như vậy, từ nội dung lý thuyết nêu trên tác giả vận dụng vào nghiên cứu;

trong quá trình nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động chăm sóc – trợ giúp NCT và vai trò của NVCTXH trong hoạt động chăm sóc – trợ giúp có ảnh hưởng đến đời sống NCT tại địa bàn nghiên cứu như thế nào, lý thuyết này góp phần lý giải những hệ thống bên trong và bên ngoài cộng đồng nó có tác động đến NCT tại địa phương ra sao; những hệ thống nguồn lực cần huy động để chăm sóc - trợ giúp NCT như: Cán bộ chính quyền địa phương, cán bộ y tế, cán bộ đoàn thể, các tổ chức xã hội... và các tiểu hệ thống như: những NCT khác cùng tham gia các hoạt động, NCT cùng tham gia các CLB, gia đình của NCT, những nhóm bạn bè NCT hay chia sẻ và tiếp xúc… Từ đó, hiểu được các hệ thống đó, có tác động và ảnh hưởng tới sự tham gia của

Một phần của tài liệu VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI (Trang 42 - 50)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(128 trang)
w