Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải

Một phần của tài liệu Giáo trình luật biển đh hàng hải (Trang 26 - 33)

Muốn tính được chiều rộng lãnh hải phải xác định được đường cơ sở. Có hai loại đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải: đường cơ sở thông thường và đ−ờng cơ sở thẳng.

1. Đờng cơ sở thông thờng.

Hiệp ước đầu tiên nói đến đường cơ sở là hiệp ước Anh - Pháp năm 1839 về đánh cá - ngấn nước thuỷ triều thấp nhất tạo thành đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Ngấn nước thủy triều thấp nhất là "đường cắt của bề mặt n−ớc triều khi xuống thấp nhất với bờ biển". Đ−ờng này chạy dọc theo bờ biển hoặc phần đất dốc của bờ, tại đó biển lùi xuống mức triều thấp nhất.

Phương pháp đường cơ sở thông thường liên quan nhiều tới sự thay đổi mực nước biển, tới mực số 0 thuỷ triều trên các hải đồ. Mực 0 này rất khác nhau giữa các n−ớc và ngay cả giữa các vùng của bờ biển một quốc gia.

Ph−ơng pháp này đ−ợc công nhận vào năm 1930 tại Hội nghị pháp điển hoá luật quốc tế tại Lahaye và đ−ợc ghi nhận trong điều 5 của Công −ớc Giơnevơ

năm 1958 và trở thành Nguyên tắc luật tại điểm 5 của Công −ớc năm 1982 (phương pháp này không cho phép mở rộng các vùng biển và rất khó áp dụng đối với các bờ biển khúc khuỷu, phức tạp): "Đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn n−ớc triều thấp nhất dọc theo bờ biển, nh− đ−ợc thể hiện trên các hải đồ có tỉ lệ lớn đã đ−ợc quốc gia ven biển chính thức thừa nhận".

2. Đờng cơ sở thẳng.

Đ−ờng cơ sở thẳng xuất hiện đầu tiên tại vùng biển Na Uy.

Năm 1951, Toà án quốc tế xử cho Na Uy thẳng cuộc trong vụ án Ng−

tr−ờng Anh - Na Uy. Các nguyên tắc áp dụng đ−ờng cơ sở thẳng năm 1935 của Na Uy trở thành các tiêu chuẩn mới của luật quốc tế.

Điều 7, Công −ớc 1982 về luật biển đã ghi rõ:

- ở nơi nào mà bờ biển bị khoét sâu hoặc bị lõm hay có một chuỗi đảo dọc bờ biển gần sát bờ thì ph−ơng pháp kẻ đ−ờng cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

- ở nơi nào mà bờ biển cực kỳ không ổn định vì có một châu thổ và vì các

đặc điểm tự nhiên khác, thì các điểm thích hợp có thể đ−ợc lựa chọn dọc theo ngấn n−ớc thuỷ triều thấp nhất nhô ra xa nhất có dịch vào phía bờ biển, các

đường cơ sở vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi chúng cho phù hợp với Công −ớc.

- Tuyến các đ−ờng cơ sở này không đ−ợc đi quá xa h−ớng chung của bờ biển và phạm vi biển ở bên trong các đường này phải gắn liền với đất liền đến mức để được đặt dưới chế độ nội thuỷ.

- Các đ−ờng cơ sở thẳng không đ−ợc kéo về phía hay xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm trừ trường hợp ở đây người ta có xây cất các đèn biển hay các thiết bị t−ơng tự th−ờng xuyên ở trên mặt n−ớc, hay trừ tr−ờng hợp tuyến các

- Trong trường hợp mà phương pháp xác định đường cơ sở được áp dụng ở những chỗ lõm sâu bằng cách nối những đoạn thẳng thích hợp thì có thể tính đến những lợi ích kinh tế và tầm quan trọng của những lợi ích đó đã đ−ợc một quá

trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.

- Ph−ơng pháp đ−ờng cơ sở thẳng do một số quốc gia áp dụng không đ−ợc khiến cho lãnh hải của một số quốc gia khác bị ngăn cách bởi vùng đặc quyền về kinh tế của quốc gia đó hay với biển cả. Và:

+ Trong trường hợp những bộ phận đảo cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá ngấm ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở thẳng là ngấn nước triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cùng của các mỏm đá, nh− đã đ−ợc thể hiện trên các bản đồ

đ−ợc quốc gia ven biển chính thức thừa nhận (Điều 6 - Công −ớc 1982).

+ Nếu một con sông đổ ra biển mà không tạo thành vụng thì đường cơ sở là một đ−ờng thẳng đ−ợc kẻ ngang qua cửa sông nối liền các điểm ngoài cùng của ngấn n−ớc triều thấp nhất ở hai bên bờ sông (Điều 9 - Công −ớc 1982).

+ Đối với vịnh (mà bờ vịnh thuộc một quốc gia duy nhất) thì khi khoảng cách giữa các ngấn n−ớc triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên của một vịnh v−ợt quá 24 hải lý, thì đ−ợc kẻ một đoạn đ−ờng cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong vịnh sao cho phía trong của nó có một diện tích n−ớc tối đa (Điều 10 - Công −ớc 1982).

+ Đối với bãi cạn lúc chìm, lúc nổi thì ngấn n−ớc triều thấp nhất ở trên các bãi cạn này có thể được dùng làm đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải.

Như vậy, đường cơ sở thẳng được áp dụng thường đối với các bờ biển khúc khuỷu, phức tạp. Ng−ời ta dùng các đoạn thẳng nối các điểm thích hợp lại với nhau để tạo thành đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải - Đường này gọi là

đ−ờng cơ sở thẳng.

Công ước năm 1982 đã thể hiện ba khả năng để áp dụng đường cơ sở thẳng:

- ở những nơi bờ biển khúc khuỷu, bị khoét sâu và lồi lõm.

- ở những nơi có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển.

- ở những nơi có các điều kiện thiên nhiên đặc biệt gây ra sự không ổn

định của bờ biển nh− sự hiện diện của các châu thổ.

Có hai điều kiện đ−ờng cơ sở thẳng đ−ợc Quốc tế công nhận: Tuyến

đ−ờng cơ sở thẳng vạch ra phải đi theo xu h−ớng chung của bờ biển; Các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức đặt dưới chế độ nội thuỷ, có nghĩa là tuyến đường cơ sở thẳng vạch ra không được cách xa bê.

Có hai hạn chế để tránh lạm dụng phương pháp đường cơ sở thẳng: Các

điểm chọn làm điểm cơ sở phải thực tế vật chất rõ ràng; Các bãi cạn lúc chìm lúc nổi không được chọn làm các điểm cơ sở, trừ trường hợp ở đó có các công trình luôn cao hơn mặt n−ớc biển.

Văn phòng luật pháp của Liên Hợp Quốc khuyến cáo các tiêu chuẩn để vạch đ−ờng cơ sở thẳng: Chiều dài của đoạn cơ sở thẳng không nên quá 60 hải lý; Góc lệch lớn nhất giữa đoạn cơ sở thẳng với bờ biển không quá 200 Chuỗi đảo phải chắn ít nhất 50% đ−ờng bờ biển liên quan.

Việc xác định đường cơ sở thẳng đối với quần đảo: Phương pháp đường cơ

sở thẳng cũng được áp dụng với tất cả các quy định nêu trên cho việc vạch đường cơ sở quần đảo của quốc gia quần đảo.

- Quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi nổi của quần đảo với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỉ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô phải ở giữa tỉ số 1/1 và 9/1.

- Chiều dài của các đ−ờng cơ sở này không đ−ợc v−ợt quá 100 hải lý. Tuy nhiên có tể có tối đa là 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn, nh−ng cũng không quá 125 hải lý (Điều 47 - Công −ớc 1982).

3. Thực tiễn các quốc gia vạch đờng cơ sở thẳng.

- Tới tháng 1/1994 hơn 60 quốc gia đã tuyên bố đường cơ sở thẳng và 10 nước quy định trong luật quốc gia áo dụng phương pháp đường cơ sở thẳng nh−ng không công bố toạ độ hay bản đồ.

- Năm 1979 Malaysia công bố bản đồ thể hiện ranh giới phía ngoài của

- Colombia năm 1984 vạch một đoạn đ−ờng cơ sở dài 103,5 hải lý tại bờ biển không khúc khuỷu và lồi lõm, cũng không có một chuỗi đảo nào, quy vào nội thuỷ n−ớc này một vùng biển rộng hơn 2000 hải lý vuông, tr−ớc kia một phần thuộc biển cả một phần thuộc lãnh hải.

- Banglados năm 1974 tuyên bố đ−ờng cơ sở thẳng đ−ợc vạch theo đ−ờng

đẳng sâu 10 fathom.

- Myanma có luật năm 1977, đ−ờng cơ sở thẳng dài 222 hải lý, lậch 600 so với xu thế chung của bờ biển.

- Trung Quốc: ngày 15/5/1996 đã có tuyên bố về đường cơ sở. Có nhiều vấn đề không đúng với Công ước năm 1982. Đáng chú ý là: Đường cơ sở tiếp giáp với quần đảo Hoàng Sa (của Việt Nam) gồm 28 điểm nối liền các điểm nhô

ra nhất của các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần đảo.

Nh− vậy: Đ−ờng cơ sở là một con đ−ờng cụ thể vạch rõ đâu là giới hạn của nội thuỷ, từ đâu trở đi là lãnh hải, là vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển. Có hai loại đường cơ sở: đường cơ sở thông th−ờng và đ−ờng cơ sở thẳng. Tuỳ theo từng quốc gia áp dụng và có thể phối hợp và cả hai loại đường để về đường cơ sở của quốc gia.

4. Đờng cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam.

+ Ngày 12/11/1982, Chính phủ nước ta công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của nước ta. Trong tuyên bố đã xác định "Đường cơ sở dùng

để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam là đường cơ sở thẳng nối liền các điểm có toạ độ từ điểm tiếp giáp 0 của hai đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của n−ớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và n−ớc Cộng hoà nhân dân Campuchia nằm giữa biển trên đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu và đảo PuloWai đến đảo Cồn Cỏ theo toạ độ đ−ợc vạch trên các bản đồ tỉ lệ 1:1.000.000 của Hải quân nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1979. Phần vịnh Bắc Bộ thuộc phía Việt Nam là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thuỷ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh sẽ công bố sau" và "đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể trong một văn bản tiếp theo phù hợp với tuyên bố ngày 12/5/1977, điểm 5: Các đảo và quần đảo thuộc lãnh

thổ Việt Nam ở ngoài vùng lãnh hải đều có lãnh hải, vùng tiếp giáp vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa riêng."

- Điểm xuất phát từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là điểm O (ch−a có toạ độ cụ thể) - Một điểm nằm trên ranh giới phía Tây Nam của vùng nước lịch sử chung Việt Nam và Campuchia kéo dài đến Hòn Nhạn của quần đảo Thổ Chu (gọi là điểm A1), qua hòn Đá Lẻ (A2) đến nhóm Côn Đảo (A3, A4, A5), qua Hòn Hải thuộc nhóm Phú Quí (A6) đến Hòn Dôi (A7), qua mũi Đại Lãnh (A8), đến Hòn Ông Căn (A9), qua đảo Lý Sơn (A10),

đến đảo Cồn Cỏ (A11). Đoạn đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh Bắc Bộ sẽ

đ−ợc Chính phủ n−ớc ta công bố sau (nghĩa là điểm kết thúc của đ−ờng cơ sở ch−a đ−ợc xác định)

Các điểm của đ−ờng cơ sở cách xa bờ nhất là Hòn Hải trên 70 hải lý, Côn

Đảo trên 50 hải lý, Hòn Nhạn khoảng 80 hải lý, điểm ở mũi Đại Lãnh nằm sát ngay bờ biển. Các điểm khác trung bình cách bờ biển từ 12 đến 24 hải lý.

Các đoạn đường cơ sở thẳng dài nhất là từ Hòn Hải đến Hòn Dôi trên 160 hải lý, từ Hòn Hải đến Côn Đảo trên 170 hải lý, từ Hòn Đá Lẻ đến Hòn Nhạn trên 100 hải lý.

Mặc dù có một số điểm cách xa bờ từ 50 đến 80 hải lý và cáh xa nhau trên 100 hải lý. Nhưng quy định của nước ta về đường cơ sở ven bờ lục địa vẫn không trái với những quy định của luật pháp và tập quán quốc tế đã có từ trước đến nay.

Vì nước ta có đủ căn cứ lịch sử và thực tế để chứng minh rõ ràng các điểm ở bên trong đường cơ sở (có toạ độ nêu dưới) hoàn toàn liên quan mật thiết đối với kinh tế quốc phòng, an ninh của mình và đã do nhân dân ta sử dụng từ lâu đời.

Mặt khác các khu vực này không đụng chạm đến lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế của nước khác và cũng không đụng chạm đến biển cả.Trong tiến trình mở rộng quan hệ hợp tác với các n−ớc trong khu vực, Việt Nam luôn tôn trọng và thiện chí giải quyết các vướng mắc về Biển đông với các nước trên nguyên tắc giữ nguyên hiện trạng, không làm xấu đi tình hình hiện tại.

Toạ độ các điểm chuẩn đường cơ sở

dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam

O - Nằm trên ranh giới phía Tây Nam, vùng n−ớc lịch sử Việt Nam và Campuchia

A1 -Tại Hòn Nhạn, quần đảo Thổ Chu 09015'0 103027'0 A2 Tại Hòn Đá Lẻ ở Đông nam Hòn Khoai

(tỉnh Minh Hải) 08022'8 104052'1

A3 Tại Hòn Tài Lớn, Côn Đảo - Vũng Tàu 08037'8 106037'5 A4 Tại Hòn Bông Lang, Côn Đảo 08038'9 106040'3 A5 Tại Hòn Bẩy Canh, Côn Đảo 08039'7 106042'1 A6 Tại Hòn Hải, nhóm Phú Quốc Thuận Hải 09058'0 109005'0 A7 Tại Hòn Dôi - Phú Khánh 12039'0 109028'0

A8 Tại Mũi Đại Lãnh 12053'8 109027'2

A9 Tại Hòn Ông Căn - Ng.Bình 13054'0 109021'0 A10 Tại Đảo Lý Sơn – Ng.Bình 15023'1 109009'0 A11 Tại đảo Cồn Cỏ - Bình T.Thiên 1701-'0 107020'6

Bờ biển nước ta dài 3260km (đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các đảo quốc) ven biển có nhiều mũi đá nhô ra ngoài biển, có nhiều vũng, vịnh, có nhiều đảo nhỏ ven bờ, có nhiều đảo, quần đảo cách xa bờ. Nh−ng về mặt địa lý, hành chính, kinh tế và quốc phòng luôn luôn gắn liền với hệ thống đảo ven bờ và các vùng bờ biển đất liền. Dùng các đảo này làm điểm chuẩn đường cơ sở của nước ta không hề đi chệch khỏi chiều hướng chung của bờ biển lục địa nước ta.

Ta thường nói: "Bờ biển Việt Nam cong cong hình chữ S". Nhìn trên hải đồ,

đường cơ sở vạch theo các điểm chuẩn được công bố đã giữ nguyên vẹn hình dáng chữ S quen thuộc trong tâm trí nhân dân ta từ bao đời nay.

+ Về đường cơ sở của nước ta cần chú ý các vấn đề sau đây:

- Hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam gồm 10 đoạn nối 11

điểm có toạ độ (đã nêu trên). Trừ điểm A8 nằm trên mũi Đại Lãnh, các điểm còn lại nằm trên các đảo. Hệ thống này ch−a kín, còn tồn tại hai điểm nằm ngoài biển chưa xác định: Điểm O trên vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia và

điểm kết thúc ở cửa vịnh Bắc Bộ.

- Đường cơ sở ven bờ lục địa Việt Nam đoạn từ A1 đến A7 có khoảng cách rất xa bờ chỗ xa nhất là 82 hải lý.

Hiện nay, Việt Nam đã phê chuẩn Công −ớc 1982. Nghị quyết của Quốc Hội ngày 23/6/1994 về việc phê chuẩn Công −ớc của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982: "Giao cho Uỷ ban th−ờng vụ Quốc Hội và Chính phủ nghiên cứu

để có những sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với các quy định liên quan của pháp luật quốc gia cho phù hợp với Công −ớc của Liên Hợp Quốc về luật biển năm 1982, đảm bảo lợi ích của Việt Nam".

III . Xác định ranh giới phía ngoài của lãnh hải.

1. Khái niệm.

Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là đường mà mỗi điểm của nó cách đều các điểm hoặc đ−ờng cơ sở một đoạn bằng chiều rộng lãnh hải. Trong tr−ờng hợp các quốc gia gần nhau hoặc đối diện nhau thì việc xác định ranh giới của lãnh hải phải thông qua thương lượng để thoả thuận. Nếu không thảo thuận được thì xác định bằng phương pháp đường trung tuyến và không quốc gia nào được phép mở rộng lãnh hải đi qua đường trung tuyến đó. Đường trung tuyến phải

đ−ợc vẽ trên hải đồ có tỉ lệ 1: 100.000 trở lên. Ranh giới phía ngoài cách đều

đ−ờng cơ sở một khoảng cách là 12 hải lý.

2. Bản chất pháp lý của ranh giới phía ngoài của lnh hải.

Đ−ờng ranh giới phía ngoài của lãnh hải cũng đ−ợc coi là biên giới quốc gia trên biển.Vì lãnh hải là một vùng biển mang nội dung pháp lý chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, đ−ờng biên giới này là đ−ờng biên giới quốc gia không hoàn toàn vì tầu thuyền n−ớc ngoài đ−ợc quyền qua lại không gây hại đ−ờng biên giới này mà không phải xin phép tr−ớc. Đ−ờng biên giới quốc gia trên biển có các

đặc điểm khác với biên giới quốc gia trên đất liền ở chỗ không đ−ợc đánh dấu bằng các cột mốc quốc giới, nó đ−ợc công bố bằng các bản kê toạ độ địa lý trên các hải đồ và công bố đúng thủ tục gửi Liên Hợp Quốc để luân chiểu.

Một phần của tài liệu Giáo trình luật biển đh hàng hải (Trang 26 - 33)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(79 trang)