Tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong quá trình dạy học

Một phần của tài liệu tổ chức dạy học phần “quang hình học” vật lý 11 ban cơ bản theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh (Trang 20 - 25)

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THPT

1.2. Tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong quá trình dạy học

“Tính tích cực, nét tính cách rất quan trọng trong nhân cách thể hiện ở năng lực làm thay đổi thực tiễn, theo nhu cầu, mục đích của mình trong hoạt động sản xuất, học tập, sáng tạo, đấu tranh, …”. Tiến sĩ I.F. Khalamốp thì coi nó là trạng thái hoạt động của các chủ thể, nghĩa là của người hành động chỉ đề cập trong quá trình nhận thức, thuộc mục đích trước mắt. Như vậy, khi vận dụng vào PPDH thì quan niệm của I.F. Khalamốp là phù hợp hơn.

Nói chung, tính tích cực là trạng thái hoạt động của các chủ thể, nghĩa là của người hành động. Vậy tính tích cực học tập là trạng thái hoạt động của HS, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức.

GS Trần Bá Hoành cũng quan niệm, "Tính tích cực học tập là trạng thái hoạt động của HS, đặc trưng bởi khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. Nói cách khác, là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao các hoạt động tri giác nhằm lỉnh hội những kinh nghiệm trong xã hội”

Nói tóm lại tính tích cực là một phẩm chất vốn có và cần có của con người trong đời sống xã hội.

- Việc hình thành và phát triển tính tích cực là một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo con người năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Có thể coi tính tích cực như là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo dục.

+ Đặc điểm của tính tích cực: Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ động tạo ra các sản phẩm phục vụ cho xã hội, bằng lao động, sản xuất ra những của cải vật chất cần cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, sáng tạo ra nền văn hoá ở mỗi thời đại. Hình thành và phát triển tính tích cực là một trong các nhiệm

19

vụ chủ yếu của giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực như là một điều kiện đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách của quá trình giáo dục. tính tích cực thể hiện ở hai mặt: tự phát và tự giác.

- Tính tích cực tự phát là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi của mỗi người. Chúng ta cần nuôi dưỡng, coi trọng và phát triển chúng trong quá trình dạy học.

- Tính tích cực tự giác là trạng thái tâm lý tích cực, có mục đích và đối tượng rõ rệt, thể hiện ở tính chủ động trong quan sát, nhận xét, phân tích và chiếm lĩnh đối tượng.

+ Tính tích cực trong hoạt động học thể hiện ở:

- Óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học.

- Sự độc lập trong việc tiếp nhận và giải quyết các nhiệm vụ học tập.

- Tích cực trong hoạt động nhận thức: chủ động trong quá trình phát hiện, tìm hiểu và giải quyết nhiệm vụ nhận thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên.

- Có khát vọng hiểu biết, nỗ lực trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.

- Tính tích cực trong hoạt động học còn thể hiện ở sự hứng thú trong việc nghiên cứu tri thức mới, sẵn sàng của tư duy, sáng tạo trong tiếp thu và vận dụng kiến thức.

- Tính tích cực nẩy sinh trong quá trình học tập, nhưng nó lại là hậu quả của nhiều nguyên nhân, có những nguyên nhân xuất phát trong quá trình học tập, có những nguyên nhân được hình thành trong quá khứ, thậm chí từ lịch sử lâu dài của nhân cách.

- Quyết tâm vượt khó trong quá trình học tập, tự giác tham gia vào các hoạt động học, chủ động trao đổi với nhau và với giáo viên, không tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà thường hay phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra, nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích những vấn đề chưa hiểu rõ, kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn.

- Khi đạt tới một trình độ nhất định, việc học tập tích cực sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học cũng làm ra những tri thức mới cho khoa học.

+ Tính tích cực học tập đạt những cấp độ từ thấp đến cao:

- Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của giáo viên.

- Tìm tòi: độc lập giải quyết những vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề.

20

- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu ích.

- Tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào những nhân tố sau: hứng thú, nhu cầu, động cơ, năng lực, ý chí, tính cách, sức khỏe, môi trường.

+ Để tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh thì hứng thú là vấn đề đáng quan tâm nhất vì:

- Nó được hình thành một cách nhanh chóng và ở bất cứ lúc nào trong quá trình dạy học.

- Điều quan trọng hơn cả là người thầy có thể điều khiển hứng thú của học sinh qua các yếu tố của quá trình dạy học: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học; qua các bước lên lớp, giảng bài mới, củng cố, vận dụng, kiểm tra kiến thức; qua mối quan hệ thầy trò…

Để kích thích hứng thú học tập của học sinh điều quan trọng nhất là phải nắm được khả năng, nhu cầu, nguyện vọng của học sinh.

1.2.2. Tính tự lực học tập của HS [20], [27], [33]

Tính tự lực là một phẩm chất nhân cách. Tính tự lực có liên quan chặt chẽ đến biểu hiện tích cực, ý chí, tình cảm, các quá trình nhận thức,…của con người. Và trong quá trình học tập, HS phải biết sáng tạo khi tiếp thu tri thức, hình thành thái độ, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo.

Hoạt động học tập thực chất là hoạt động nhận thức. Ở đây thì tính tự lực nhận thức là hạt nhân của tính tự lực trong quá trình học tập.

- Theo nghĩa rộng, bản chất của tính tự lực nhận thức là sự sẳn sàng về mặt tâm lý cho sự tự học. Sự chuẩn bị này là tiền đề quan trọng cho hoạt động học tập có mục đích, có kế hoạch, có sự điều chỉnh và đảm bảo hoạt động đó đạt được kết quả. HS suy đoán được diễn biến những quá trình trí tuệ, cảm xúc, động cơ ý chí của mình, đánh giá đúng mối tương quan giữa khả năng, nguyện vọng và sự cần thiết phải đạt kết quả học tập nhất định. HS biết huy động mọi sức lực, thể lực, trí lực phù hợp với điều kiện và nhiệm vụ học tập. Từ đó có thể nêu lên khái niệm tính tự lực học tập như sau: ”Tính tự lực học tập là một phẩm chất nhân cách quan trọng của con người được hình thành trong quá trình hoạt động học tập của HS. HS xác định mục đích, động cơ học tập đúng đắn, luôn bồi dưỡng năng lực học tập, tự tổ chức học tập cho bản thân, có sự nỗ lực cao về trí tuệ, thể lực, ý chí nhằm lĩnh hội tri thức, rèn luyên kĩ năng kĩ xảo để thoả mãn nhu cầu nhận thức nói chung và học tập nói riêng”.

21

+ Những biểu hiện hành vi của tính tự lực học tập của HS trong và ngoài giờ học thể hiện ở bảng 1.1

Bảng 1.1: Biểu hiện hành vi của tính tự lực học tập trong và ngoài giờ học

Trong giờ học Ngoài giờ học

Đi học đều

Chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập Học thuộc bài cũ

Hăng hái phát biểu ý kiến Tích cực thảo luận nhóm

Chú ý nghe giảng và chép bài đầy đủ Nghiêm túc trong kiểm tra, trong các thí nghiệm thực hành.

Nỗ lực cao về trí tuệ, ý chí, thể lực

Học bài cũ

Tham gia các hoạt động ngoại khóa Hoàn thành bài tập về nhà

Chủ động tìm kiếm bài tập, tư liệu ở thầy cô và bạn bè

Trao đổi bài học với bạn bè và thầy cô Khái quát kiến thức bài học

Lập kế hoạch học tập hằng ngày Tự kiểm tra kiến thức đã tiếp thu .

Để đào tạo nguồn nhân lực có đủ đức, trí, thể, mỹ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngoài việc rèn luyện cho học sinh tính tích cực trong học tập còn phải hướng học sinh đến khả năng tự lực khám phá tri thức. Theo quan điểm giáo dục hiện nay, tính tự lực trong học tập được hiểu là:

- Tự học, tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, tức là cá nhân hoá việc học.

- Tự mình khám phá những điều mình chưa rõ, chưa có, chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt.

- Người học tự mình trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách nghĩ của mình, từ đó tiếp thu được kiến thức mới, kĩ năng mới, bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.

+ Đặc điểm của tính tự lực:

- Khơi dậy nội lực vốn có, tạo lòng ham học,ham hiểu biết, từ đó kết quả nhân lên gấp bội.

- Tự lực trong học tập còn giúp người học có thêm niềm vui, niềm hứng thú, từ đó nảy sinh nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập.

22

- Ngoài ra, người học còn tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng.

1.2.3. Tính sáng tạo trong học tập của HS. [20], [26], [33]

Sáng tạo là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất và tinh thần, tìm ra được cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới.

- Để rèn luyện tính sáng tạo của HS trong học tập nói chung và trong học tập môn Vật lý nói riêng cần phải xem xét tới một đặc điểm tâm lý của quá trình sáng tạo.

- Một trong những đặc điểm quan trọng của hoạt động sáng tạo là tính mới mẽ của sản phẩm. Theo tâm lí học sản phẩm mới mẻ có vai trò quan trọng đối với hoạt động học tập sáng tạo. Cái mới và cái chưa biết đối với HS có thể là cái đã biết đối với GV nhưng cũng có thể là cái mà GV chưa biết (ví dụ như giải một cách độc đáo một bài tập).

- Năng lực sáng tạo của mổi cá nhân thể hiện ở chổ cá nhân đó có thể mang lại những giá trị mới, những sản phẩm mới quý giá đối với nhân loại.

- Đối với HS, tính sáng tạo trong học tập chính là khả năng biết giả quyết vấn đề, để tìm ra cái mới ở mức độ nào đó thể hiện được khuynh hướng, năng lực, kinh nghiệm của cá nhân học sinh. Học sinh sáng tạo cái mới đối với bản thân nhưng thường không có giá trị xã hội. Để có sáng tạo, chủ thể phải ở trong tình huống có vấn đề, tìm cách giải quyết mâu thuẩn trong nhận thức hoặc hành động và kết quả là đề ra phương án giải quyết không giống bình thường mà có tính mới mẻ đối với học sinh. Tóm lại, đối với tính sạng tạo trong học tập là năng lực tìm ra cái mới, năng lực phát hiện ra vấn đề chưa biết, chưa có và tạo ra cái chưa biết, chưa có mà nó không bị bó buộc vào cái đã có.

Năng lực sáng tạo không phải chỉ là bẩm sinh mà được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động của chủ thể. Vì vậy muốn phát triển tính sáng tạo cho học sinh, giáo viên phải rèn luyện cho học sinh thói quen nhìn nhận mổi sự kiện dưới những góc độ khác nhau, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi giải thích một hiện tượng, biết đề xuất nhiều phương án khác nhau khi giải quyết một tình huống. Cần giáo duc cho học sinh không vội vã bằng lòng với giải pháp đầu tiên được đề xuất, không suy nghỉ cứng nhắc theo quy tắc đã được học trước đó, không vận dụng máy móc những mô hình hành động đã gặp trong sách vở. Đây là những biể hiện về sự linh hoạt, sự mới mẻ trong tư duy sáng tạo của học sinh.

+ Những biểu hiện về tính sáng tạo của học sinh trong học tập môn Vật lý

23

Tính sáng tạo của học sinh chỉ được phát triển thông qua các hoạt động thực tế như: trong chiếm lỉnh tri thức Vật lý, vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng Vật lý, làm thí nghiệm, giải ác bài tập Vật lý trong những tình huống khác nhau…

Trong dạy học Vật lý chúng ta có thể bồi dưỡng tính sáng tạo cho học sinh như:

- Năng lực phán đoán đưa ra giả thuyết khoa học

- Năng lực đề xuất ra phương án thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết đưa ra.

- Năng lực chuyển tải các tri thức và kĩ năng đã biết sang một tình huống mới - Năng lực nhìn thấy những vấn đề mới trong điều kiện quen biết

- Năng lực tìm ra những chức năng mới trong những đối tượng quen biết - Năng lực nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu.

- Đứng trước một bài toán có năng lực nhìn thấy nhiều lời giải, nhiều cách nhìn đối với viêc tìm kiếm lời giải.

- Một bài toán có nhiều cách giải nhưng biết chọn cách giải bài toán độc đáo.

Một phần của tài liệu tổ chức dạy học phần “quang hình học” vật lý 11 ban cơ bản theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh (Trang 20 - 25)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(183 trang)