Diễn biến quá trình TNSP

Một phần của tài liệu tổ chức dạy học phần “quang hình học” vật lý 11 ban cơ bản theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh (Trang 134 - 144)

CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

3.4. Diễn biến quá trình và kết quả TNSP

3.4.1. Diễn biến quá trình TNSP

Nguyên tắc để học sinh có thể sáng tạo khi giải quyết vấn đề là học sinh chưa từng gặp vấn đề này trước đó, không bị gò bó trong suy nghĩ. Do đó khi tiến hành giảng dạy theo tiến trình ở chương 2, để tạo điều kiện cho các em suy nghĩ và đưa ra các ý kiến của mình, giáo viên yêu cầu các em tích cực suy nghỉ, thảo luận nhóm và hạn chế sử dụng sách giáo khoa để tìm câu trả lời cho các câu hỏi.

Phân tích cụ thể hiệu quả của các tiến trình dạy học đã soạn thảo.

Bài 26: “Khúc xạ ánh sáng”.

Bài khúc xạ ánh sáng gồm những nội dung cơ bản sau: hiện tượng khúc xạ ánh sáng, nội dung định luật khúc xạ ánh sáng; chiết suất tỉ đối, tuyệt đối của một môi trường và tính thuận nghịch của sự truyền ánh sáng.

Hoạt động 1: HS lớp thực nghiệm trả lời đúng câu hỏi như tiến trình đã soạn thảo.

Hoạt động 2: Với yêu cầu HS làm thí nghiệm và nhận xét đường truyền của tia sáng trong thí nghiệm, đa phần học sinh nhận xét được tia sáng bị gãy khúc tại mặt phân cách, nhưng không chú ý đến tia phản xạ kèm theo. GV phải nhắc HS chú ý xem ngoài tia tới và tia khúc xạ còn tia nào khác không?

Khi chuyển sang phần định luật khúc xạ ánh sáng. Khi yêu cầu HS nhận xét về mối liên hệ giữa góc tới i và góc khúc xạ r về mặt định tính thì HS lớp TN nhận xét theo đúng tiến trình. Nhưng khi GV hỏi mối liên hệ đó được thể hiện qua biểu thức nào thì đa phần HS chưa đưa ra được. Khi xử lý số liệu để tìm mối liên hệ giữa góc tới và góc khúc xạ, tôi nhận

133

thấy đa số học sinh đều mắc phải hạn chế: các em tính tỉ số sin sin i

r và dựa vào SGK kết luận luôn mà không xét đến độ chênh lệch giữa các kết quả. Giáo viên đã giải thích để rèn luyện cho học sinh tính trung thực, khách quan khi xử lý số liệu thí nghiệm.

Việc thiết kế phương án thí nghiệm để kiểm chứng mối liên hệ giữa i và r từ các dụng cụ thí nghiệm đã có là không quá phức tạp, tuy nhiên học sinh lại không nói rõ từng bước cụ thể và nhiều lúng túng khi trực tiếp tiến hành thí nghiệm. Ở nội dung còn lại của bài học đã diễn ra như tiến trình đã soạn thảo và các em đã sơ bộ biết vận dụng định luât định luật khúc xạ ánh sáng để hoàn thành phiếu học tập, từ đó nhận xét về tính thuận nghịch của sự truyền ánh sáng.

- Trong phần vận dụng GV đề cập đến 1 hiện tượng phổ biến cuộc sống nhưng lại làm cho khá nhiều học sinh ngạc nhiên. Vận dụng định luật khúc xạ ánh sáng để giải thích hiện tượng đó sẽ giúp học sinh nắm vững và nhớ lâu hơn.

Nhận xét giờ dạy:

 Ưu điểm:

- Không khí lớp học sôi nổi, nhiều HS tích cưc, chủ động phát biểu ý kiến xây dựng bài.

- HS đã biết phân công nhóm, thảo luận sôi nổi.

 Nhược điểm:

- Việc phân bố thời gian chưa hợp lí, kết thúc bài học trễ 15 phút.

- Kĩ năng đề xuất giả thuyết còn yếu. Kĩ năng về thực hành, thí nghiệm và sử lý số liệu còn hạn chế.

Bài 27: “Hiện tượng phản xạ toàn phần”

Hoạt động 1: Hầu hết HS đều hoàn thành phiếu học tập sau 5 phút, HS tính được góc khúc xạ trong trường hợp đầu, nhưng đến trường hợp sau thì các em tính được sinr > 1. Vấn đề này làm cho HS cảm thấy mâu thuẩn với định định luật khúc xạ ánh sáng trước đó. Do đó đã tạo điều kiện cho HS tích cực, tự lực suy nghĩ, đưa ra khá nhiều dự đoán. Các dự đoán mặc dù chưa hoàn chỉnh, chưa chính xác nhưng để đưa ra được các dự đoán, học sinh phải suy luận, tưởng tượng dựa trên kinh nghiệm của mình, qua đây giáo viên cũng có thể đánh giá mức độ nắm vững kiến thức cũ của học sinh.

Hoạt động 2: GV đưa ra tình huống “còn có trường hợp nào tia sáng không đi vào môi trường 2 nữa không?”

134

Với sự gợi ý của GV, đa số HS lớp thực nghiệm đều đưa ra được câu trả lời của mình như đúng tiến trình đã soạn thảo.

Hoạt động 3: Đề xuất phương án tiến hành TN kiểm tra giả thuyết và kết luận. Phần này do đã được hướng dẫn kĩ ở bài trước nên các em đều đưa ra được phương án kiểm chứng.

GV đã phân tích và ghi nhận những phương án khả thi. Đặc biệt trong đó có một nhóm nêu và giải thích được tác dụng của các dung cụ trong TN. Tiếp đó GV phát dụng cụ TN để các nhóm kiểm tra giả thuyết và hoàn thành phiếu học tập số 2. Qua hoạt động này GV cũng có thể đánh giá tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong việc đề xuất phương án và tiến hành TN.

Hoạt động 4: Vì kiến thức này được ứng dụng trong đời sống nên HS thích thú, vui vẽ khi tiếp nhận những thông tin này. Kết quả diễn ra đúng tiến trình đã soạn thảo.

Phần vận dụng: Ở hai câu hỏi đầu các em tích cực tham gia trả lời. Nhưng đến câu hỏi 3

“cho biết tại sao kiêm cương lại có vẽ đẹp rực rỡ” Thì đa phần HS không thể giải thích hoàn chỉnh được. GV đã cho các em xem một đoạn clip về hình ảnh của kim cương khi có ánh sáng chiếu vào, qua đó HS đã tự lực trả lời được câu hỏi trên.

Nhận xét giờ dạy:

 Ưu điểm

- Tiến trình soạn thảo tương đối phù hợp với trình độ HS

- HS đã biết đề xuất vấn đề cần nghiên cứu và phương án kiểm nghiệm dưới sự hướng dẫn của GV.

- HS đã biết phân công trong nhóm, bố trí TN và tiến hành TN nhanh chóng hơn so với tiết trước.

 Nhược điểm:

- Chưa chuẩn bị được các dụng cụ phù hợp với các phương án TN mà HS đưa ra.

- Vẫn còn tình trạng cháy giáo án gần 10 phút.

Bài 28 “Lăng kính”

Hoạt động 1: Khi GV cho HS xem một số lăng kính và yêu cầu HS nhận xét về hình dạng và cấu tạo của lăng kính. Các nhóm sôi nổi thảo luận và nhanh tróng đưa ra nhận xét của mình.

- Có 4/6 nhóm (lớp TN) đã đưa ra nhận xét như tiến trình đã soạn thảo.

135

Hoạt động 2: Khi GV yêu cầu HS nhận xét về đường truyền của tia sáng trắng ra khỏi lăng kính, các em thích thú khi nhìn thấy chùm sáng ló ra khỏi lăng kính là một dải sáng có màu biến đổi liên tục từ đỏ đến tím. Nhưng khi yêu cầu HS giải thích tại sao chùm sáng ló ra khỏi lăng kính lại bị lêch về phía đáy lăng kính. Một số em vẫn còn lúng túng, vì chưa nắm vững cách vẽ tia khúc xạ, xác định sai pháp tuyến,..

Phần kiểm chứng tia ló bị lệch về phía đáy lăng kính dễ dàng nhìn thấy khi tiến hành thí nghiệm, nhưng do yêu cầu không cần phải thiết lập các công thức của lăng kính nên giáo viên chỉ yêu cầu học HS vẽ đường tuyền của chùm sáng ló ra khỏi lăng kính.

Phần thời gian còn lại của tiết học GV tổ chức giới thiệu cho HS tìm hiểu một số công dụng của lăng kính theo tiến trình đã soạn thảo.

Ở lớp ĐC, do dạy học theo phương pháp truyền thống nên khi GV tổ chức cho các em tìm hiểu công dụng của lăng kính. Các em chưa chủ động tham gia các hoạt động chủ yếu vẫn chờ đợi sự hướng dẫn của GV.

Nhận xét giờ dạy:

 Ưu điểm:

- Học sinh đã tích cực, tự lực đưa ra nhận xét của mình khi GV yêu cầu

- Do sự giảm tải của Bộ giáo dục nên kiến thức bài học đơn giản nên HS dễ hiểu được nội dung của bài học.

 Nhược điểm:

- GV vẫn chưa chuần bị được đầy đủ các dụng cụ TN, ứng dụng của lăng kính cho học sinh quan xát và nghiên cứu do nhà trường chưa được trang bị máy quang phổ.

Bài 29: “Thấu kính mỏng”

Hoạt động 1: Vấn đề đặt ra tương tự như bài “lăng kính” khi quan sát hình dạng của các thấu kính học sinh nhận xét và đưa ra khái niệm về thấu kính. Tiếp đến GV yêu cầu HS phân loại thấu kính dựa vào hình dạng bên ngoài và đường truyền của chùm sáng ló khi đi qua lăng kính. Ở phần này kiến thức đơn giản nên các em rất tự tin khi đưa ra nhận xét của mình, diễn ra theo đúng tiến trình.

Hoạt động 2: Ở hoạt động này khi GV dành thời gian cho các em tự lực tìm hiểu những đặc trưng có bản của thấu kính trong thời gian 10 phút sau đó lên trước lớp báo cáo. Thì đa số học sinh rất tích cực trao đổi nhóm và sôi nổi trình bày ý kiến của mình và tranh luận với nhau, thậm chí với những em trước đây rất thụ động và kết quả học tập chua tốt. Qua hoạt

136

động này tôi thấy các em đã chủ động hơn, tích cực, tự lực và sáng tạo trong việc học tập của mình.

Khi GV đặt câu hỏi “Ứng dụng của thấu kính hội tụ trong cuộc sống” Với câu hỏi này phần lớn HS dựa vào những kiến thức thực tế của mình và nhanh chóng đưa ra câu trả lời.

Tiết 2:Tìm hiểu về sự tạo ảnh của thấu kính, công thức và ứng dụng của thấu kính.

Ở phần này chúng tôi sử dụng bài giảng điện tử để cho các em quan sát về đường truyền của tia sáng và sự tạo ảnh của một vật qua thấu kính.

Quan sát lớp TN với bài giảng điện tử chúng tôi thấy rằng: Không khí lớp học thật sự khác hẳn với lớp đối chứng. Các em thích thú và quan tâm đến nhữnng TN minh họa. Vì thế các em tham gia trả lời những câu hỏi của GV đưa ra nhiều hơn và chính xác hơn. Với những hình ảnh minh họa có sẵn, HS có thể quan sát nhiều lần để đưa ra những nhận xét chính xác hơn về nội dung kiến thức cần tiếp thu. Hoạt động diễn ra theo đúng tiến trình xây dựng ở chương II.

Nhận xét giờ dạy:

Tôi nhận thấy tiết dạy diễn ra rất đơn giản vì các em đã tích cực tham gia xây dựng kiến thức với sự định hướng của GV. Nhìn chung bài dạy có những ưu và nhược điểm sau:

 Ưu điểm

- Không khí lớp học sôi nổi, đa số các em tỏ thái độ mong muốn và sẵn sàng tiếp thu nội dung kiến thức mới.

- Giữa GV và HS có nhiều thời gian tương tác với nhau tạo điều kiện cho các em phát huy tích cực và sáng tạo hơn trong học tập.

- HS đã tự tin đưa ra những ý kiến của mình.

 Nhược điểm

- Chưa chuẩn bị cho HS được các phương án thí nghiệm kiểm chứng.

- Phân phối thời gian vào các nội dung bài dạy chưa hợp lí. Kéo dài hơn so với phân phối chương trình 10 phút.

Bài 31: “Mắt”

Hoạt động 1: Tìm hiểu về cấu tạo quang học của mắt.

Ở phần này GV yêu cầu HS tự tìm hiểu về các bộ phận chính của mắt và một nhóm lên trình bày trước lớp. Các nhóm nhận nhiệm vụ và phân công làm việc trong thời gian 7 phút,

137

hoạt động này giúp HS tự tin hơn khi chính các em được trình bày bài trên lớp, khi các HS khác lắng nghe và cùng tham gia xây dựng kiến thức.

Hoạt động 2:

GV lưu ý và đưa ra câu hỏi ”Với cấu tạo của mắt như vậy, tạo sao mắt lại có thể nhìn rõ vật ở các vị trí khác nhau?”. Câu hỏi này đưa HS vào tình huống có vấn đề, HS tích cực thảo luận trao đổi với nhau. Ban đầu có 1 nhóm trả lời, dưới sự định hướng của GV các nhóm đã nhận ra nguyên nhân của hiện tượng.

GV cho HS xem clip về hoạt động của mắt. HS trả lời được các câu hỏi và diễn ra theo đúng tiến trình đã soạn.

Tiết 2:

Khi HS đã biết rõ đặc điểm về sự tạo ảnh của thấu kính, sự điều tiết của mắt,.. GV đưa ra tình huống “Tại sao trong cuộc sống các em thấy có người đeo mắt kính, có người thì không đeo?”. Với tình huống này các em được liên hệ thực tế, trao đổi với nhau nhanh chóng đưa ra câu trả lời.

Hoạt động 1:

GV yêu cầu HS tự lực tìm hiểu về đặc điểm của mắt cận và cách khắc phục. Đối với hoạt động này tôi nhận thấy rằng, HS hiện nay mắc tật cận thị rất phổ biến nên các nhóm dựa trên những hiểu biết thực tế của mình do đó hầu hết các nhóm nhanh trong đưa ra nhận xét của mình.

Hoạt động 2 và 3 cũng diễn ra tương tự như hoạt động 1, tức là theo đúng tiến trình soạn thảo ở chương II.

Hoạt động 4: Giáo viên cho HS xem một đoạn clip giới thiệu người ta làm phim hoạt hình và đưa ra tình huống “Tại sao các hình ảnh này lại chuyển động như trong thực tế?”.

Vấn đề này hầu hết các nhóm lúng túng không biết lý do tại sao, nhưng dưới sự định hướng của GV hầu hết các em đã hiểu nguyên nhân.

Nhận xét giờ dạy:

Ở bài này HS đã chủ động, tích cưc, tự lực tham vào các hoạt động xây dựng kiến thức trong bài học một cách sáng tạo. Các em tự tin khi được nói ra những hiểu biết của mình trước lớp

Bài 32: “Kính lúp”

138

Ở bài này GV phát cho mỗi nhóm một tờ giấy có ghi dòng chữ nhỏ. Yêu cầu HS đọc dòng chữ trên tờ giấy. HS lúng túng vì dòng chữ quá nhỏ, không thể đọc được. Với sự định hướng của GV thì đa phần các em sử dụng một một quang để đọc dòng chữ nhỏ đó. GV đặt thêm câu hỏi: “Vậy kính lúp có cấu tạo như thế nào mà có thể nhìn rõ các vật nhỏ?”. Câu hỏi này HS tiếp tục gặp lúng túng, nhưng dưới sự hướng dẫn của GV đã có 4/6 nhóm trả lời được câu hỏi ở phần trên.

Khi HS đã biết cấu tạo và công dụng của kính lúp. GV đưa ra tình huống “Sử dụng kính lúp như thế nào để nhìn rõ được các vật nhỏ?”. HS lớp TN tích cực thảo luận, nhanh chóng trả lời chính xác theo đúng trình tự trong tiến trình soạn thảo.

Tình huống kiểm chứng, bằng những hiểu biết của mình HS đã tự lực chọn ra những chiếc kính bổ trợ cho mắt tốt nhất.

Nhận xét giờ dạy:

Tôi nhận thấy đa số học sinh đều cho rằng tác dụng của kính lúp là phóng to vật. Rút kinh nghiệm của bài lăng kính nên trước khi yêu cầu học sinh thiết lập biểu thức số bội giác của kính lúp, giáo viên đã nhắc lại các kiến thức hình học có liên quan để học sinh có thể tự lực xây dựng biểu thức số bội giác G.

 Ưu điểm:

- Tiến trình soạn thảo phù hợp với trình độ của HS

- HS đã biết vận dụng hiểu biết thực tế của mình vào viêc xây dựng bài học.

- HS thích thú khi sử dụng các dụng cụ quang hình để quan sát các vật nhỏ.

- HS biết phân công nhóm, bố trí và làm TN tích cực, nhanh chóng hơn so với bài khúc xạ ánh sáng.

 Nhược điểm:

- Tiến trình soạn thảo chưa chú ý đến kiến thức thực tế đã có của HS - Thời gian dạy kéo dài hơn phân phối chương trình 5 phút.

Bài 33: “Kính hiển vi”

Hoạt động 1: Muốn nhìn rõ các vật rất nhỏ như các tế bào, vi khuẩn,.. ta phải dùng dụng cụ bổ trợ quang nào cho mắt? Với kiến thức đã biết ở bộ môn Sinh học các em đã nhanh chóng đưa ra dụng cụ đó là “kính hiển vi”. Vì vậy, GV nêu thêm câu hỏi “ Vậy, kính hiển gồm những linh kiện quang học nào và được bố trí như thế nào?”

HS lớp TN nhanh chóng thảo luân, một số em sử dụng SGKđể đưa ra đề xuất của mình.

139

Có 5/6 nhóm chon mô hình “ thấu kính hội tụ+ thấu kính hội tụ” nhóm còn lại “thấu kính phân kì + thấu kính hội tụ”. Nhưng khi hỏi tại sao lại đươc cấu tạo như vậy, thì một số em không giải thích được.

GV nhận xét các mô hình đã đề xuất và yêu cầu HS kiểm tra về tính đúng đắn của các mô hình bằng cách, GV phát các dụng cụ như đã đề xuất và hoàn thành câu 1 phiếu học tập.

Sau khi GV tổng hợp nội dung kiến thức có 1 em HS đặt câu hỏi ”Tại sao phải giữ khoảng cách giữa vật kính và thị kính cố định và khoảng cách này có giá trị bao nhiêu?”

Hoạt động 2: Sự tạo ảnh và số bội giác của kính hiển vi. Các em tích cực trao đổi để hoàn thành phần còn lại trong phiếu học tập. Nhưng ở phần này có một nhóm thắc mắc “Với mô hình kính hiển vi như vậy thì ảnh ngược chiều với vật thì có dễ dàng quan sát không? Có cách nào khắc phục không?

Hoạt động 3: Các em chủ động tích cực hoàn thành yêu cầu của GV. Nhưng với câu hỏi “ Tại sao phải chọn thấu kính hội tụ có tiêu cự ngắn để làm vật kính và thị kính. Với câu hỏi này một số em lúng túng, nhưng với sự định hướng của GV các em đã hiểu rõ bản chất và đưa ra câu trả lời phù hợp.

Nhận xét giờ dạy: Như vậy có thể thấy khi được tạo điều kiện để xây dựng kiến thức mới một cách tự do dưới sự định hướng của giáo viên, các em rất tích cực, sôi nổi trình bày ý kiến của mình và tranh luận với nhau, thậm chí với những em trước đây rất thụ động và có kết quả học tập chưa tốt. Mặc dù có nhiều ý kiến chưa đúng, cách dùng từ ngữ chưa chuẩn xác, cách trình bày còn lúng túng, chưa mạch lạc nhưng cách học này đã đã giúp các em tích cực, tự lực và sáng tạo hơn trong học tập.

 Ưu điểm

- HS đã biết vận dụng những hiểu biết thực tế của mình để xây dựng nội dung kiến thức của bài học.

- HS tỏ ra rất thích thú khi dùng dụng cụ do mình chế tạo để quan sát các vật nhỏ

 Nhược điểm

- HS còn sử dụng SGK để trả lời các câu hỏi nên vẫn chưa phát huy hết tính tự lực, sáng tạo của HS.

- Có nhóm vẫn chưa bố trí được các thấu kính hội tụ để tạo thành kính hiển vi, một phần vì thao tác còn kém, một phần vì dụng cụ TN vẫn chưa được chính xác và kiến thức tương đối khó với trình độ HS.

Một phần của tài liệu tổ chức dạy học phần “quang hình học” vật lý 11 ban cơ bản theo hướng phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh (Trang 134 - 144)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(183 trang)