CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC VÀ SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THPT
1.4. Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của HS trong dạy học Vật lý ở trường THPT [25], [27], [33]
1.4.2. Tăng cường công việc của HS với SGK, BT và TN Vật lý
Sách giáo khoa vật lý hiện nay đã có một sự thay đổi đáng kể so với sách giáo khoa cải cách giáo dục trước đây: ở mỗi đầu chương hay đầu mỗi bài học thường đưa ra những tình huống có vấn đề, những hiện tượng thường thấy trong tự nhiên, những ứng dụng trong khoa học kỹ thuật và đời sống liên quan với nội dung sắp trình bày, vì thế sách giáo khoa hiện nay góp phần kích thích trí tò mò hay tìm hiểu hay khám phá của học sinh nếu như học sinh được đọc chúng, nhờ đó phát huy được tính tích cực, tự lực của học sinh trong học tập Vật lý.
Thêm vào đó, sách giáo khoa vật lý hiện nay có phần trình bày thêm những nội dung, những bài đọc thêm, những thí nghiệm, những định luật không đủ điều kiện thực hiện (vì cấu tạo và cách thức hoạt động của các lọai thiết bị khá phức tạp). Cho học sinh đọc những phần này sẽ giúp đào sâu hoặc mở rộng tầm hiểu biết về một kiến thức vật lý nào đó cho học sinh.
Ngoài ra, sách giáo khoa còn đề ra các hoạt động cho học sinh, vì vậy nếu giáo viên có cách tổ chức cho học sinh họat động cá nhân hoặc hoạt động nhóm (tùy trường hợp) một cách phù hợp sẽ làm tăng cường tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh, nhờ vậy học sinh sẽ trưởng thành cả về kiến thức, kỹ năng, thái độ và cả về phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu khoa học.
31
Hơn nữa, sách giáo khoa Vật lý hiện nay có nhiều tranh ảnh rõ nét, màu sắc thực, những bảng số liệu cụ thể giúp học sinh dễ quan sát và theo dõi khi kết hợp với việc nghe lời giảng của giáo viên, qua đó giúp luyện thêm các giác quan cho học sinh (thị giác và thính giác).
Ngoài ra, sách giáo khoa còn có những tác dụng tích cực đối với học sinh khi sử dụng ở nhà. Bởi vì, khi ở nhà học sinh sẽ có nhiều thời gian hơn để đọc nó nhằm chuẩn bị bài mới hoặc củng cố, đào sâu thêm những kiến thức được học trên lớp thông qua những ví dụ hay bài đọc thêm.
Tuy nhiên, để việc sử dụng sách giáo khoa ở nhà đạt hiệu quả cao cần có sự hỗ trợ của giáo viên, mà cụ thể là giáo viên nên giao công việc cho từng cá nhân hoặc từng nhóm nhỏ dưới dạng nhiệm vụ học tập: chẳng hạn như trả lời các câu hỏi nhằm phục vụ cho việc xây dựng bài học mới hay kiến thức mới, nhờ đó kích thích học sinh phải làm việc với sách giáo khoa: từ việc tìm kiếm thông tin đến việc tiếp nhận thông tin và cuối cùng là chế biến nó theo suy nghĩ riêng để thực hiện nhiệm vụ học tập được giao; hoặc có thể giáo viên chỉ dẫn để học sinh có thể sử dụng sách giáo khoa như một tài liệu cho việc định hướng học sinh thực hiện một bài tổng kết chương hay tổng kết một phần nào đó theo suy nghĩ riêng của từng học sinh.
b. Công việc của HS với BT Vật lý
Giải bài tập là một họat động trí óc gồm những thao tác đa dạng phức tạp nhưng xét cho cùng thì luôn là sự đối chiếu các điều kiện với các yêu cầu của bài, phân tích lý giải nhằm tìm ra mối liên hệ đã có để giải quyết mâu thuẩn giữa điều kiện và yêu cầu.
Vật lý là bộ môn khoa học gắn liền với cuộc sống, chính vì điều đó mà giải bài tập vật lý không chỉ là những công việc trên mà còn là tìm ra mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tế. Do vậy giáo viên chúng ta cần hiểu rằng việc giải các bài tập vật lý không phải là mục đích của dạy học, mà mục đích chính của công việc này là giúp học sinh hiểu rõ hơn nội dung kiến thức vừa học, biết cách ứng dụng kiến thức đó vào thực tiễn qua đó rèn luyện kỹ năng phân tích tổng hợp, đào sâu mở rộng một kiến thức đã biết, kỹ năng suy luận tính toán, đồng thời phát huy cách làm việc tự lực, tính kiên trì vượt khó và đặc biệt là phát huy năng lực tư duy sáng tạo của học sinh.
Đối với học sinh, cần loại ra khỏi suy nghĩ của chúng việc giải bài tập là đi lựa chọn một cách máy móc những công thức có chứa các đại lượng đã cho hoặc những đại lượng cần tìm, cũng như tránh để cho những con số và các phép tính toán trong khi giải làm che khuất
32
hoặc lu mờ đi việc tìm hiểu ý nghĩa quan trong trong một bài tập Vật lý. Nhưng một thực tế thường thấy, việc giải một bài tập Vật lý ở trường phổ thông hiện nay thường thực hiện theo các bước sau:
- Đọc đề bài.
- Giáo viên phân tích hướng dẫn trình tự làm bài.
- Yêu cầu một học sinh lên bảng giải, các học sinh khác ngồi tại chỗ giải.
Với cách làm này, với những học sinh chưa ý thức được vai trò của việc giải bài tập Vật lý sẽ không tích cực, tự lực suy nghĩ về ý nghĩa bài tập đó mà hầu như chỉ tập trung vào các phép tính toán dựa trên một trình tự đã được bày sẵn giống như việc đi chép lại ý tưởng của giáo viên hay của một vài bạn tích cực nào đó trong lớp. Nhưng phải làm sao đây hay chỉ còn cách trông chờ vào ý thức tự giác của mỗi học sinh. Dưới đây sẽ là những biện pháp giúp giáo viên và cả học sinh đạt kết quả như ý muốn với công việc giải bài tập Vật lý.
● Về nội dung bài tập Vật lý:
+ Trước hết bài tập phải được xây dựng một cách có hệ thống, từ dễ đến khó; từ biết, hiểu, vận dụng, rồi phân tích tổng hợp,…; lọai bài tập vận dụng cũng phải chú ý nội dung của nó phải đi từ những hiện tượng rất gần gũi với cuộc sống xung quanh đến những vận dụng có tính khoa học và phức tạp hơn, để học sinh dễ hình dung và tưởng tượng.
+ Bài tập sau phải nhằm giải quyết một bế tắc ở bài tập trước hoặc một tình huống mới mà bài tập trước chưa nhắc đến nhằm kích thích hứng thú và tính tò mò của học sinh tạo ra động cơ học tập tốt.
+ Bài tập định tính nên xếp trước vì thông thường các bài tập loại này hay là việc giải thích một hiện tượng hay một lý do xảy ra hiện tượng. Do vậy học sinh chỉ cần hiểu và thêm vào một tí kỹ năng vận dụng là đã làm được các bài toán đơn giản.
+ Bài tập thí nghiệm thường được đưa ra sau cùng vì đôi khi để giải được loại bài tập loại này đòi hỏi học sinh phải có một quá trình tích cực nghiên cứu, suy nghĩ để thiết kế một thí nghiệm ở nhà hoặc ở phòng thí nghiệm mới hy vọng giải được nó.
+ Bài tập định lượng: đây là loại bài tập mà học sinh có vẽ thích thú nhất vì nó cụ thể, rõ ràng thông qua những con số. Do vậy cần phải khai thác triệt để tính tích cực, tự lực và khả năng tư duy của học sinh thông qua loại bài tập này.
c. Sử dụng TN Vật lý
33
Trong dạy học Vật lý, thí nghiệm Vật lý không chỉ để minh họa bài giảng mà còn được sử dụng ở tất cả các khâu của quá trình dạy học, dưới mọi hình thức đa dạng và phong phú như: đặt vấn đề bằng cách tạo ra những tình huống có vấn đề bằng thí nghiệm; hình thành kiến thức mới thông qua khảo sát, minh họa hay kiểm tra các giả thuyết đã đưa ra; củng cố và vận dụng các kiến thức đã học mà cụ thể là đề cập đến những ứng dụng của kiến thức vật lý đó vào trong sản xuất và đời sống; hay là dùng để kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội về kiến thức, kỹ năng của học sinh;…
+ Sử dụng thí nghiệm Vật lý tạo tình huống có vấn đề:
Vật lý vốn là bộ môn khoa học thực nghiệm, vì vậy cần khai thác triệt để các thí nghiệm Vật lý nhằm tạo ra những tình huống có vấn đề hoặc lựa chọn sự khởi đầu phù hợp. Thông qua thí nghiệm, tạo cho học sinh sự ngạc nhiên, sự khó khăn nhất định về mặt nhận thức đối với vấn đề được đặt ra, sự mâu thuẫn trong nhận thức của học sinh. Nhờ đó kích thích hứng thú muốn tìm hiểu, khám phá, khởi đầu cho những dự đoán, sáng tạo của học sinh trong quá trình nhận thức.
+ Sử dụng thí nghiệm Vật lý nhằm khảo sát, minh hoạ, hay kiểm tra giả thuyết:
Việc sử dụng lọai thí nghiệm này phải phù hợp với hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Thí nghiệm này thường được dùng để đưa ra những mô hình hay giả thuyết, hoặc dùng để kiểm tra những mô hình hay giả thuyết được học sinh hoặc giáo viên gợi ý đưa ra. Nhờ những thí nghiệm này mà học sinh có thể thu thập được những thông tin cần thiết và liên quan với đối tượng cần nghiên cứu, nhất là có thể kiểm tra được những dự đoán của học sinh. Nếu kết quả thí nghiệm trùng khớp với dự đoán ban đầu sẽ làm cho học sinh phấn khởi, tự tin hơn đồng thời khắc phục tâm lý tự ti thường gặp ở học sinh khi học vật lý, từ đó học sinh trở nên thích thú và tích cực hơn trong học tập vật lý.
+ Sử dụng thí nghiệm Vật lý để chứng minh:
Việc sử dụng thí nghiệm Vật lý để chứng minh nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong giờ học thông qua việc lôi cuốn học sinh vào những câu hỏi định hướng hay những tình huống mới mà việc suy nghĩ để tìm ra câu trả lời cũng đồng thời với việc học sinh tự đưa ra tiến trình và dự đoán kết quả của thí nghiệm dựa trên một số dụng cụ có sẵn mà giáo viên đã chuẩn bị. Khi đã thống nhất với tiến trình thí nghiệm là tiếp ngay đến việc thực hiện thí nghiệm, quan sát, ghi số liệu và xử lý kết quả. Nếu có điều kiện (có nhiều bộ dụng cụ) thì nên phân chia đến từng nhóm nhỏ và thực hiện đồng lọat; nếu chỉ có duy
34
nhất một bộ thì giáo viên nên yêu cầu một số học sinh có kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hiện các thao tác thí nghiệm tốt lên phía trước bàn các bạn còn lại để thực hiện dưới sự quan sát và điều chỉnh khi cần thiết của giáo viên. Thí nghiệm kết thúc sẽ là hoạt động trao đổi giữa giáo viên và học sinh về mối liên hệ giữa lý thuyết và kết quả thí nghiệm.
+ Sử dụng thí nghiệm vật lý để kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội về kiến thức, kỹ năng của học sinh:
Từ thí nghiệm chứng minh, giáo viên có thể mở rộng bằng cách thay đổi điều kiện, đặt tình huống mới, và yêu cầu học sinh dùng suy luận logic hay thực hiện lại các thí nghiệm theo những điều kiện và tình huống này…qua đó có thể kiểm tra, đánh giá sự lĩnh hội kiến thức cũng như các thao tác, kỹ năng thí nghiệm của học sinh. Qua đó thấy rằng việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học vật lý góp phần vào việc phát triển toàn diện, giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh. Nhờ thí nghiệm Vật lý mà học sinh hiểu sâu hơn bản chất vật lý của các hiện tượng, quá trình, định luật,…Do vây khả năng liên hệ kiến thức vật lý với thực tế của học sinh sẽ linh hoạt và hiệu quả hơn.
Mặt khác, đây còn là cơ hội rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo thực hành, góp phần thiết thực vào việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh, tránh những bỡ ngỡ khi tiếp xúc hay sử dụng những dụng cụ tương tự ngoài thực tế cuộc sống hay trong công việc sau khi rời khỏi ghế nhà trường.