Các khái ni ệm liên quan

Một phần của tài liệu tổ chức lãnh thổ du lịch tỉnh phú yên (Trang 22 - 28)

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ

1.1. Cơ sở lí luận của tổ chức lãnh thổ du lịch

1.1.1. Các khái ni ệm liên quan

- Du lịch

Từ xa xưa, du lịch đã xuất hiện và trở thành một hiện tượng khá quan trọng trong đời sống của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, có rất nhiều tác giả quan tâm đến du lịch và có nhiều khái niệm về du lịch.

Từ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Tonos” nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được Latinh hóa thành “Turnur” và sau đó thành “Tour” trong tiếng Pháp nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “Touriste” là người đi dạo chơi. Từ “Tourism”

trong tiếng Anh xuất hiện từ khoảng năm 1800 và được quốc tế hóa. Ngoài ra cũng có ý kiến cho rằng từ du lịch bắt nguồn từ tiếng Pháp “le tour” chứ không phải là tiếng Hy Lạp. Tuy còn chưa thống nhất về nguồn gốc thuật ngữ “du lịch” nhưng có một điểm chung là nội hàm thuật ngữ này nói đến chuyến hành trình từ nơi này đến nơi khác và có quay trở lại.

Năm 1811, định nghĩa về du lịch lần đầu tiên xuất hiện tại nước Anh: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí” [dẫn theo 41, trang 5].

Năm 1930, Clusman (Thụy Sỹ) cho rằng: “Du lịch là sự chinh phục không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên”

[dẫn theo 41, trang 6].

Năm 1951, Giáo sư Hunziker (Thuỵ Sĩ) đã đưa ra khái niệm: “Du lịch là tổng thể các hiện tượng và các mối liên hệ phát sinh từ chuyến đi khỏi nơi thường trú và không liên quan với các hoạt động kiếm sống” [dẫn theo 15, trang 12].

Năm 1985 I.I Pirojnik định nghĩa: “Du lịch là một hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi thường trú nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận

thức văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và xã hội” [dẫn theo 41, trang 6].

Năm 1991, tại Otawa (Canada), Hội nghị quốc tế về Thống kê Du lịch đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải để thực hiện các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm” [dẫn theo 41, trang 6]

Năm 1993, Hội nghị lần thứ 27 của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã đưa ra khái niệm du lịch thay thế cho khái niệm năm 1963: “Du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên của con người và ở lại đó để tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn một năm” [dẫn theo 41, trang 6].

Luật Du lịch Việt Nam (2005), chương I, điều 4, khoản 1 định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [44].

Như vậy có thể thấy có rất nhiều quan niệm khác nhau về du lịch ở từng nơi, từng thời điểm và từng tác giả nghiên cứu. Theo thời gian những quan niệm về du lịch cũng thay đổi và hoàn thiện hơn. Ở nước ta, quan niệm “du lịch” trong Luật Du lịch Việt Nam (2005) là được thừa nhận rộng rãi hơn cả. Tuy có nhiều cách nhìn khác nhau nhưng nhìn chung, du lịch được hiểu là một dạng hoạt động của con người liên quan đến việc di chuyển chỗ ở đến một nơi khác trong một khoảng thời gian ngắn để thoả mãn việc nghỉ ngơi, giải trí, tìm hiểu, khám phá... Du lịch là một hoạt động đặc thù có nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm kinh tế, vừa có đặc điểm văn hóa - xã hội.

Trong xu hướng phát triển ngày càng mạnh mẽ, trên thế giới những năm gần đây xuất hiện nhiều khái niệm mới về du lịch: du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, du lịch bền vững, du lịch cộng đồng...

Du lịch sinh thái: Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về du lịch sinh thái lần đầu

tiên được Hector Ceballos – Lascurain đưa ra năm 1987: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi, với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hóa được khám phá” [dẫn theo 12, trang 8].

Từ đó đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch sinh thái của các nhà nghiên cứu. Tại Việt Nam, Hội thảo về “Xây dựng chiến lược phát triển Du lịch sinh thái ở Việt Nam” đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn giáo dục với môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương” [12, trang 11].

Du lịch văn hoá:Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống” [44].

Mục đích của du lịch văn hoá là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, thoả mãn nhu cầu được hiểu biết về văn hoá, lịch sử, kiến trúc, kinh tế - xã hội, lối sống và phong tục tập quán của đất nước đến du lịch.

Du lịch bền vững:

Theo WTO: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống của con người” [dẫn theo 25, trang 22].

Theo luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai” [44].

Du lịch cộng đồng: Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch của người dân địa phương. Họ tham gia làm du lịch cùng với một tổ chức kinh tế nào đó (có thể cả với tổ chức nước ngoài) nhằm khai thác những lợi thế (cả tự nhiên và KTXH) để tăng thu

nhập, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện sống ở địa phương, bảo vệ được nguồn tài nguyên thiên nhiên và giữ gìn được bản sắc văn hoá của địa phương [15, trang 17].

Sản phẩm du lịch: Theo luật du lịch Việt Nam (năm 2005) “Sản phẩm du lịch là tâp hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch” [44].

Những bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch:

Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + Dịch vụ du lịch

Tài nguyên du lịch gồm có: Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.

Dịch vụ du lịch gồm có: Dịch vụ lữ hành; vận chuyển; lưu trú, ăn uống; vui chơi giải trí; mua sắm; thông tin, hướng dẫn; dịch vụ trung gian và dịch vụ bổ sung.

Các loại hình du lịch: Có nhiều tiêu chí phân loại các loại hình du lịch. Trong luận văn này, tác giả sử dụng tiêu chí phân loại theo mục đích chuyến đi để tiện sử dụng cho việc đưa ra định hướng phát triển du lịch Phú Yên trong chương 3. Theo tiêu chí này, loại hình du lịch gồm có:

- Du lịch thuần túy: là chuyến đi chỉ với mục đích du lịch. Loại hình này gồm có:

Du lịch tham quan; du lịch giải trí; du lịch thể thao; du lịch khám phá; du lịch nghỉ dưỡng.

- Du lịch kết hợp: là chuyến đi ngoài mục đích du lịch còn có những lý do khác.

Loại hình này bao gồm: Du lịch tôn giáo; du lịch học tập nghiên cứu; du lịch thể thao kết hợp; du lịch công vụ; du lịch chữa bệnh; du lịch thăm thân.

- Tổ chức lãnh thổ

Có rất nhiều khái niệm về TCLT. Có thể chia thành hai nhóm: khái niệm của các nhà địa lí Xô Viết và khái niệm của các nhà địa lí phương Tây.

Đối với các nhà địa lí Xô Viết: Tổ chức lãnh thổ theo nghĩa rộng bao gồm phân công lao động theo lãnh thổ, phân bố lực lượng sản xuất, sự khác biệt về vùng trong quan hệ sản xuất, mối quan hệ tương hỗ giữa xã hội và thiên nhiên, các vấn đề về chính sách. Theo nghĩa hẹp, nó bao gồm tổ chức lãnh thổ - hành chính của nhà nước, quản lý vùng về sản xuất, sự hình thành các thành tạo lãnh thổ về tổ chức - kinh tế, xác định các khách thể vùng quản lý, phân vùng KTXH… Có thể đưa ra định nghĩa ngắn

gọn như sau: “Tổ chức lãnh thổ xã hội là sự kết hợp các cơ cấu lãnh thổ đang hoạt động (bố trí sắp xếp dân cư, sản xuất, sử dụng tài nguyên thiên nhiên), được liên kết lại bởi các cơ cấu quản lý với mục đích tái sản xuất cuộc sống của xã hội phù hợp với các mục đích và trên cơ sở các quy luật kinh tế hiện hành trong hình thái xã hội đó” [17, trang 54].

Như vậy, TCLT có hai tính chất cơ bản là tính tổ chức và tính lãnh thổ - hệ thống lãnh thổ. Tính tổ chức là tính được sắp xếp, tính phù hợp bên trong của tác động qua lại giữa các bộ phận ít nhiều được phân công hóa và độc lập của chỉnh thể do cấu tạo của nó quy định. Tính lãnh thổ - hệ thống lãnh thổ là độ dài không gian, có ranh giới, có kích thước, là nét tạo hình đặc biệt của đối tượng, là những đặc điểm không gian của bức tranh phân bố các đối tượng trong một phạm vi nhất định. Hệ thống lãnh thổ bao gồm hệ thống sản xuất, hệ thống dân cư và hệ thống tự nhiên. Trong đó hệ thống sản xuất là phức tạp nhất và đóng vai trò quan trọng nhất.

Từ những năm 1965, để thúc đẩy phát triển kinh tế có hiệu quả, các nhà khoa học Xô Viết đã khẳng định sự cần thiết phải kết hợp tối ưu việc kế hoạch hoá theo ngành và theo lãnh thổ nhằm đảm bảo kế hoạch hoá tổng hợp và giải quyết những vấn đề kinh tế quốc dân to lớn. Khái niệm về kế hoạch hoá lãnh thổ ở đây chính là vấn đề TCLT.

Đối với các nhà địa lí phương Tây: từ thế kỷ XIX, TCLT đã trở thành khoa học quản lý. Do đó, khái niệm tổ chức lãnh thổ đã xuất hiện ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp từ sớm. Theo Morrille (1970), “Tổ chức theo không gian là kinh nghiệm của loài người về sử dụng có hiệu quả không gian trên Trái Đất”[dẫn theo 17, trang 56]. Theo Jean Paud Gaudemar (1992), “Tổ chức không gian là sự tìm kiếm một phân bố tối ưu về người, các hoạt động và tài sản nhằm tránh sự mất cân đối trên lãnh thổ quốc gia hay một vùng” [dẫn theo 14, trang 15].

Nhận thức của các nhà địa lí phương Tây là TCLT nhằm tìm kiếm một tỷ lệ và quan hệ hợp lý về phát triển KTXH giữa các ngành trong một vùng, giữa các vùng trong một quốc gia và trên mức độ nhất định có xét đến các mối liên hệ quốc gia với nhau; tạo ra một giá trị mới nhờ sắp xếp có trật tự và hài hòa giữa các đơn vị lãnh thổ khác nhau trong cùng một tỉnh, một vùng và cả nước, trong những điều kiện kinh tế thị

trường và hệ thống kinh tế mở. Mục đích của nó nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lực và lợi thế so sánh trong xu thế hòa nhập và cạnh tranh để đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững.

Ở Việt Nam, Các nhà kế hoạch hoá và các nhà địa lí kinh tế thường dùng khái niệm TCLT. TCLT được hiểu như toàn bộ quá trình hay hành động của con người nhằm phân bố các cơ sở sản xuất và dịch vụ, phân bố dân cư, sử dụng tự nhiên, có tính đến các mối liên hệ của chúng. Các hành động này được thực hiện phù hợp với các mục tiêu của xã hội và trên cơ sở các quy luật kinh tế hoạt động trong hình thái KTXH tương ứng. Mục tiêu cơ bản của nền kinh tế là cải thiện cơ cấu tổ chức sản xuất của đất nước hay của từng vùng cụ thể. TCLT cũng nhằm phát triển tổng hợp, có hiệu quả cao nền sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Có thể nói, TCLT là một biện pháp quan trọng vì mục tiêu phát triển bền vững.

Như vậy, TCLT về đại thể là sự kiến thiết lãnh thổ. Trong một lãnh thổ có rất nhiều thành phần (bộ phận) về tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội... Vấn đề ở chỗ là phải tổ chức như thế nào để đạt được mục tiêu phát triển KTXH. Trên cơ sở đó, “Tổ chức lãnh thổ được hiểu là sự sắp xếp các thành phần (đã, đang và dự kiến sẽ có) trong mối liên hệ đa ngành, đa lãnh thổ ở một vùng nhằm sử dụng hợp lí các nguồn lực để đạt hiệu quả cao nhất về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường và phát triển bền vững” [34, trang 217].

- Tổ chức lãnh thổ du lịch

Trong nghiên cứu du lịch, TCLTDL là một trong những nội dung được quan tâm hàng đầu. Sở dĩ như vậy vì không thể tổ chức và quản lí có hiệu quả hoạt động này nếu không xem xét khía cạnh không gian (lãnh thổ) của nó. Có nhiều quan niệm khác nhau về TCLTDL. Theo PGS. TS Nguyễn Minh Tuệ: “Tổ chức lãnh thổ du lịch là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch và các cơ sở phục vụ có liên quan dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên du lịch (tự nhiên, nhân văn) kết cấu hạ tầng và các nhân tố khác nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường cao nhất” [35, trang 99].

TCLTDL là hình thức tổ chức sản xuất xã hội theo lãnh thổ. Do đó TCLTDL đồng thời giải quyết các nhiệm vụ chính là kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường.

TCLT du lịch là sự phân hoá không gian của du lịch căn cứ trên điều kiện tài nguyên, hiện trạng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động, các mối liên hệ giữa ngành với các ngành khác, với các địa phương và các quốc gia liền kề.

TCLT du lịch là một bộ phận không tách rời với các định hướng của chiến lược phát triển KTXH của quốc gia và vùng, với các định hướng đô thị hoá, bảo vệ môi trường sinh thái lâu bền, với các định hướng khoa học công nghệ và các yêu cầu của an ninh quốc phòng.

Như vậy, TCLT du lịch là sự phân hoá không gian của du lịch. Sự phân hoá không gian này dựa vào TNDL, CSHT, CSVCKT, lao động trong ngành du lịch, mối liên hệ giữa ngành du lịch với ngành khác, với địa phương khác. TCLTDL phải hợp lý, khoa học để khai thác có hiệu quả TNDL, đồng thời phải bảo vệ môi trường, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.

Một phần của tài liệu tổ chức lãnh thổ du lịch tỉnh phú yên (Trang 22 - 28)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(219 trang)