Những người phụ nữ gìn giữ văn hóa

Một phần của tài liệu Nhân vật nữ trong tiểu thuyết mẫu thượng ngàn của nguyễn xuân khánh (Trang 45 - 50)

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT MẪU THƯỢNG NGÀN CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH

2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người và về người phụ nữ trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh

2.2.4. Những người phụ nữ gìn giữ văn hóa

Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn đã thể hiện hình ảnh những người phụ nữ bằng một niềm tin tôn giáo thiêng liêng, tìm đến với Mẫu không chỉ với vai trò của một đứa con về với Mẹ mà như một người công bộc của Thánh

Mẫu. Trải qua những đau khổ của cuộc đời và chứng kiến bao đau khổ của con người, họ đã trở về với Mẫu như một niềm an ủi cứu rỗi linh hồn.

Sau khi cải đạo hai lần, bà Tổ Cô tìm đến đạo Mẫu. Bà có một vai trò quan trọng trong việc chấn hưng thờ Mẫu ở làng Cổ Đình. Khi ông trưởng Cam, người chồng thứ hai chết, bà đã dùng ruộng của mình làm ruộng hương đăng cho đền Mẫu, dùng tiền bạc của ông trưởng Cam để lại cho bà để tu sửa đền Mẫu đẹp hơn. Không chỉ vậy, việc chăm lo hương khói và tu sửa đền Mẫu của bà còn góp phần tạo dựng một chốn linh thiêng mới cho những người dân làng Cổ Đình. Với người dân làng Cổ Đình, khi không còn chùa, người ta tìm đến Mẫu.

Rõ ràng, Thánh Mẫu đã chọn được một đệ tử là bà Tổ Cô. Bà giống như một người con đầu trong những người con của làng Cổ Đình góp phần xây dựng đền Mẫu. Từ đây, niềm tin nơi Mẫu được củng cố trong tiềm thức của nhân dân Cổ Đình. Đức thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu có hai loại, một là thiên thần (thánh thần do trời sinh ra), hai là nhân thần (thánh thần xuất phát từ con người) như Mẫu Liễu Hạnh, Mỵ Nương, Ỷ Lan… Trong Mẫu Thượng Ngàn, bà Tổ Cô cũng được dân làng Cổ Đình cung kính tôn thờ. Bà trở thành linh hồn của nơi đền thờ, trở thành vị thánh sống nhân từ của họ. Sau những tháng ngày đau khổ của cuộc đời: cái chết của ông Phủ Khiêm (chồng thứ nhất), rồi đứa con trai duy nhất và cuối cùng là của ông Cam (người chồng thứ hai) bà tìm đến với Mẫu.

Niềm tin ở mẫu, sự tôn thờ Mẫu đã mang lại sức sống cho bà trong những ngày tháng còn lại. “Dạo này cụ Tổ Cô mệt nhiều. Cắt thuốc không uống, chỉ muốn lên điện ngửi hương của Mẫu, chỉ ngửi mùi hương của Mẫu thế mà khỏe người ra. Hôm nào không lên y như rằng hôm ấy người yếu hẳn đi, đêm trằn trọc không ngủ được” [15, tr.261].

Nếu bà Tổ Cô được chọn là người hầu thân cận của Mẫu, là người được Mẫu gửi gắm sứ mạng chăm sóc phần tâm hồn cho những người dân nghèo khổ nơi đây thì cô đồng Mùi lại là sự lựa chọn của bà Tổ Cô. Cô Mùi cũng trở thành

người giữ gìn niềm tin thiêng liêng vào Thánh Mẫu của người dân, là người chăn dắt niềm tin ấy của họ. Cũng từ một người lắm nỗi đa đoan, đã từng sống trong sự dè bửu của dân làng, cô Mùi trở thành người phụ nữ mang trong mình sức mạnh của Thánh Mẫu, giúp người dân hóa giải được nỗi đau khổ của họ. Tìm đến với Mẫu, cô Mùi cũng hóa giải được nỗi đau của chính bản thân mình, tìm lại được niềm vui và sức mạnh của mình. Cô trở thành một người phụ nữ tiêu biểu cho việc gìn giữ và bảo vệ văn hóa phong tục của làng quê mình. Người đàn bà An Nam vốn mảnh mai và dịu hiền là thế, nhưng khi đã bước chân vào cuộc chiến với kẻ thù thì họ trở nên đáng sợ. Họ đã gìn giữ và phát triển sức sống bất diệt của nền văn hóa bản địa trước văn hóa phương Tây. “Con đực” trong cuộc chinh phục “con cái” yếu hơn mình đã thua cuộc bởi khi lấy người vợ An Nam là cô Mùi thì Philippe đã không thể hiểu được sức mạnh đằng sau vẻ đẹp của cô và vì thế “những điều khả ái hiền dịu trên cái giường ái ân lập tức biến mất. Giữa người đàn ông và người đàn bà lúc ấy lại là một cuộc vật lộn kẻ thắng người thua”. Và sau đó, cô Mùi đã chiến thắng, người đàn bà An Nam chiến thắng bởi lẽ kẻ thù ham mê vẻ đẹp của cô, ham mê cái sức mạnh huyền bí nơi cô. Như ban đầu, những người đến xâm lược chỉ thấy đây là một mảnh đất màu mỡ, là nơi họ có thể khai thác để làm giàu cho mình thì sau này họ đã hiểu được sức mạnh của đất, sức mạnh của tôn giáo bản địa thông qua tín ngưỡng thờ Mẫu ở làng Cổ Đình. Như vậy, bản thân những kẻ đi chinh phục cũng không thể phủ nhận vai trò và ánh sáng của Mẫu.

Cô Mùi đã được tác giả chú ý miêu tả trong những cuộc lên đồng. “Cô Mùi mê ngồi đồng, cô Mùi vẫn bơi thuyền theo con sông Son lên đền Mẫu và lẫm liệt ngồi đồng cả ngày trên đó” [15, tr.378]. Khi lên đồng, cô là người khác hẳn với lúc bình thường. Cô vui hẳn lên, sinh động hẳn lên. Cô hú, cô hét, cô bơi chèo, cô phán bảo. Đôi mắt cô long lanh, sáng rực. Từ một cô đồng Mùi nhu mì, hầu như cam chịu, cô biến thành một cô Mùi lẫm liệt đầy quyền uy. “Từ bầu không khí lạ lùng ấy, con người thứ hai trong cô Mùi bước ra hoàn toàn xa lạ, hoàn toàn trơn tuột lách ra khỏi kẽ tay Philippe. Nó hiền hòa không đối địch nhưng chẳng hiểu sao cứ làm hắn thấy gai gai trong lòng”.

Tác giả đã khéo léo di chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện sang điểm nhìn của nhân vật (Philippe). Từ điểm nhìn của người kể trần thuật, cô Mùi hiện lên là hai con người, một là con người hiền lành nhu mì, đời thường và một là cô Mùi vui vẻ sinh động của đạo Mẫu ẩn trong con người kia. Sự hấp dẫn, huyền bí của con người ấy đã được chuyển sang điểm nhìn của Philippe và được đẩy lên đến đỉnh cao của sự huyền bí, khiến cho hắn thấy “gai gai trong lòng”.

Khi hai vợ chồng dừng lại ở chỗ bệ thờ “Đại thụ thần linh”, cô lặng lẽ nhìn những chiếc bình vôi treo ở những rễ đa, được gió đung đưa nhè nhẹ, Philippe đứng nhìn cái dáng rầu rầu của Mùi. Cái dáng thật đáng thương hại, cái dáng của cái cây dần dần bị đứt rễ, dần dần trở nên héo hon. Hắn nghĩ tới lời của thầy Tàu: “Bà Mùi không ngồi đồng nữa chắc gì đã tốt”. Được sống với Mẫu, hầu hạ Mẫu chính là nguồn sức mạnh đem đến sức sống cho cô Mùi. Không được như thế “cô giống như cái cây dần trở nên héo hon”. Cái cây ấy chỉ có thể tươi tốt trở lại khi có dòng nước ngọt mát của Mẫu ban cho. Khi Philippe đu các bình vôi trên cây đa, Mùi van hắn đừng làm thế.

Lúc này, cô biến thành một con người khác hẳn, đôi mắt đen láy trở nên sáng lạ thường, chốc lát sau Mùi đã quay lại bình tĩnh, trở nên đĩnh đạc, duyên dáng hẳn lên. Cả đến giọng nói của cô cũng mang âm sắc khác hẳn, nó mềm mại hơn hẳn nhưng lại uy tín. Lúc này, trong một thoáng, Philippe chợt nhìn thấy cái lộng lẫy kỳ lạ của Mùi “hình như những lúc Mùi mê tín, run sợ hoặc lúc Mùi mê đắm ngồi đồng, cái riêng biệt của cô mới hé lộ.

Những khi ấy sao mắt Mùi long lanh đến thế, gương mặt cô linh động đến thế” [15, tr.380]. Đặt nhân vật tại một điểm nhìn hoàn toàn khách quan, trong con mắt của người đi xâm lược, tác giả càng làm tăng thêm sức hấp dẫn cho người phụ nữ này, một sự hấp dẫn vừa gần lại vừa xa, vừa thực lại vừa ảo. Bởi đó là những lúc cô Mùi đắm chìm trong Mẫu.

Sau khi Philippe qua đời, cô Mùi bỏ đồn điền, bỏ cả làng lên đền Mẫu ở đó cùng bà Tổ Cô. Đó là sự trở về với Mẫu để được an ủi, che chở, để được Mẫu xoa dịu bớt những nỗi đau của cuộc đời. Trải qua ba đời chồng, bị mang danh là cao số, cô Mùi đã tìm đến Mẫu, hòa mình vào mẫu để tìm được sự thanh bình, lặng yên trong tâm hồn. Bà Tổ Cô đã nói: “Ta nhận thấy ngay căn cốt của con. Con có mặt ở đâu là ở đó tươi tỉnh hẳn lên. Ai buồn gặp con, tức khắc thấy trong lòng nhẹ nhõm. Ai ốm gặp con, tức khắc dường như nhìn thấy căn bệnh đã lui. Hình như Mẫu luôn ngự nơi con để ban tài phát lộc cho con nhang đệ tử” [15, tr.697]. Và khi đã nhập đồng rồi, bà Mùi như được thánh hóa, mắt bà long lanh khác thường. Người đàn bà truân chuyên đã biến đâu mất. Hình như con người ẩn giấu trong bà đột ngột xuất hiện làm kẻ bàng quan phải ngỡ ngàng, còn người trong cuộc thì ngây ngất.

Bao nhiêu sự tủi nhục, yếu đuối cam chịu lúc này chợt bay đâu mất để nhường chỗ cho cái lẫm liệt, kiên cường, cái mạnh mẽ tràn vào thay thế”

[15, tr.709 - 710]. “Lúc thường, bà Mùi là người dịu dàng nhu mì, ăn nói khẽ khàng, cử chỉ mềm mại. Còn phút này, mắt bà sáng quắc, động tác trở nên nhanh nhẹn. Hình như có một thế lực siêu nhiên nào đó đã truyền sức mạnh

cho bà. Cây thanh long đao bằng gỗ trong tay bà múa tít vun vút, loang loáng, cứ như thể bà là một vị tướng thực sự, trong tay có bát vạn hùng binh” [15, tr.710].

Nhụ cũng là người đã tham gia tích cực vào việc giữ gìn văn hóa phong tục của làng quê mình. Nguyễn Xuân Khánh đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng nhân vật này, đặc biệt là xây dựng trong cô một niềm tin tôn giáo ngay từ tuổi ấu thơ. Chính vì thế, những nhận xét, những lý giải về Mẫu đều được miêu tả dưới cái nhìn của Nhụ chứ không phải dưới cái nhìn của một học giả nào. Nhụ không mang trong mình những sức mạnh có dấu ấn tâm linh như bà Tổ Cô hay cô Mùi nhưng ngay từ nhỏ cô đã tham gia tích cực vào viêc gìn giữ và bảo lưu truyền thống văn hóa một cách rất tự nhiên từ khả năng thiên phú của bản thân mình. Nhụ hát rất hay những bài hát, những bài chầu văn về Mẫu và những người hầu cận của Thánh Mẫu. Cô dùng tiếng hát tuyệt vời của mình để dâng hiến cho Mẫu những khúc ca hay nhất, mê hồn nhất. Cô hát một câu hát thật đẹp về cô Bé, người hầu cận của Mẫu. Đây là lời chào mừng cô Bé nhưng cũng là lời chúc tụng cụ Tổ Cô:

“Người ơi! Cỏ vái hoa chào Cô về bách điểu sớm chiều ca vang

Người ơi! Bể bạc rừng vàng Đem cho trăm họ giàu sang đời đời”

Cung văn có vai trò cực kỳ quan trọng trong hầu đồng. Họ xướng nhạc và hát cho việc trình diễn của con đồng khi thánh nhập. Nhạc cụ chủ đạo của cung văn là đàn nguyệt. Nhụ hát hay những khúc chầu văn ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Dường như lúc nào Mẫu cũng hiển hiện xung quanh Nhụ. Vào những ngày hội lớn, ông Phác sẽ đánh đàn đệm cho Nhụ hát.

Tiếng hát của Nhụ thật trong trẻo, thật ngây thơ làm cho lòng bà Mùi lúc này muốn bay lên, vươn tới miền tột cùng thánh thiện. Khi đàn hát, “Nhụ đã hát trong sự xuất thần. Tất cả đã trở nên tinh khiết. Cái linh thiêng đã cứu giúp những con người bé nhỏ” [15, tr.712]. Nhụ đã sống với Mẫu, dâng lên Mẫu tiếng hát tuyệt vời của mình để ca ngợi Mẫu, để được siêu thoát, được xuất thần, được sống trong những phút thăng hoa tuyệt diệu. Cũng như bà Tổ Cô, bà Mùi, cô cũng tìm đến gắn bó cuộc đời mình với Mẫu sau khi trải qua những khủng hoảng, mất mát vô cùng lớn về tinh thần: bị Julien cưỡng bức, chồng bị truy bắt phải đi phiêu bạt, bố bị giết. Một đêm mưa gió, một bóng người mặc áo tơi lá, đội nón sùm sụp nhằm bóng cây đa làng Đình đi tới…

một bóng người trắng toát phía trước mặt… Cái bóng trắng lạ lùng ấy đã làm chị quên đi phút chốc những nỗi riêng tư. Cái bóng trắng đang giơ cao

tay áo thụng như vẫy gọi. Người đàn bà áo tơi ngây ra một lúc, rồi khi cái bóng trắng đi theo con đường mòn ra đồng, chị ta cũng đi theo… Cũng chẳng biết chị đã lần thế nào mà cuối cùng cũng tới được đền Mẫu. Mưa gió, mê man kiệt sức nhưng rồi cuối cùng chị cũng gõ được cửa nhà bà đồng trên núi. Trong cơn đau khổ cùng cực, cô định tìm đến cái chết nhưng cái bóng trắng ấy đã hiện ra cứu sống Nhụ, đưa Nhụ về với Mẫu. Cuộc hành trình về với Mẫu được tác giả miêu tả nửa hư nửa thực bởi Mẫu vừa huyền bí vừa hấp dẫn. Bằng tiếng hát của mình, Nhụ cùng với người cha nuôi đã góp phần làm cho những cuộc nhập đồng ở đền Mẫu trở nên linh thiêng và huyền bí hơn.

Đến bà Ba Váy, cô Hoa và cả những người phụ nữ chưa được đặt tên trong tác phẩm cũng hướng về Mẫu với một sự tôn kính lạ lùng. Mọi người náo nức chuẩn bị đồ vật để cúng tế Mẫu, nô nức lên đền Mẫu trong ngày hội làng. Một bầu không khí tín ngưỡng như bao trùm lên cả làng Cổ Đình, một bầu không khí huyền thoại.

Sự linh hoạt di chuyển điểm nhìn trong miêu tả nhân vật, sự am hiểu và kết hợp khéo léo giữa mô tả đạo Mẫu và miêu tả con người đã giúp Nguyễn Xuân Khánh xây dựng được hình ảnh những người phụ nữ đẹp đẽ đầy huyền bí linh thiêng. Qua đây, nhà văn vừa ca ngợi những người phụ nữ đồng thời cũng ca tụng đạo Mẫu, một nét độc đáo của văn hóa Việt Nam.

CHƯƠNG 3

Một phần của tài liệu Nhân vật nữ trong tiểu thuyết mẫu thượng ngàn của nguyễn xuân khánh (Trang 45 - 50)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(67 trang)