Chương 1. CƠ SỞ CHO SỰ PHÁT TRIỂN KHOA CỬ THỜI MINH MẠNG (1820 - 1840)
1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI THỜI
1.1.3. Văn hóa - xã hội
Bản thân vua Minh Mạng cũng là một học giả, đã từng làm thơ, soạn sách văn học, khuyến khích biên soạn các loại sách sử, nhất là các sách sử, địa.
Nhiều người soạn sách mới, dâng sách cũ đều được nhà vua ban thưởng và khuyến khích. Các bộ sách quý như: Gia Định thành thông chí, Lịch Triều Hiến Chương loại chí… đều ra đời dưới thời Minh Mạng. Các con của ông, điển hình như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên Trinh và Tương An Quận Vương Miên Bửu… đều là những nhà văn, nhà thơ xuất sắc, và đều nổi tiếng dưới các triều vua Thiệu Trị, Tự Đức sau này.
Năm 1821, Minh Mạng thành lập Quốc tử giám ở kinh thành Huế.
Năm 1826, ông chính thức thành lập Nhà hát tuồng Quốc gia trong Đại Nội, được gọi là Duyệt Thị Đường.
Năm 1832, ông hoàn tất việc xây dựng kinh thành Huế theo kiến trúc của phương Tây kết hợp với kiến trúc thành quách của phương Đông.
Để xã hội có qui củ cùng nề nếp, nhà vua cho thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục. Năm Bính thân (1836) phủ huyện được cấp các cân mẫu, rồi năm Kỷ hợi (1839) được cấp các loại thước mộc, thước may, thước đo ruộng. Về y phục ông từng bảo: “Ngày nay nước nhà cương thổ đã hiệp nhất thì chính trị, phong tục lẽ nào khác biệt” [10, tr.180]. Bởi thế, nên nhiều đạo dụ được ban bố để y phục ở miền Bắc và miền Nam giống nhau.
Những năm về cuối đời vua Thánh Tổ, trong nước lắm giặc giã, phong tục thành ra kiêu bạc, dân sự lắm người cờ bạc rượu chè và hay mê hoặc những tà giáo. Nhà vua lấy sự ấy làm lo, bèn soạn ra 10 điều huấn dụ, ban ra mọi nơi, để dạy bảo ngu dân.
1. Đô Nhân Luân: trọng tam cương ngũ thường.
2. Chính Tâm Thuật: làm việc gì cũng cốt phải giữ bụng dạ cho chính đính trong sạch.
3. Vụ Bản Nghiệp: giữ bổn phận chăm nghề nghiệp của mình.
4. Thượng Tiết Kiệm: chuộng đường tiết kiệm.
5. Hậu Phong Tục: giữ phong tục cho thuần hậu.
6. Huấn Tử Đệ: phải dạy bảo con em.
7. Sùng Chính Học: chuộng học đạo chính.
8. Giới Dâm Thắc: răn giữ những điều gian tà dâm dục.
9. Thận Pháp Thủ: cẩn thận mà giữ pháp luật.
10. Quảng Thiện Hạnh: rộng sự làm lành.
Năm bính thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, có quan giám sát ngự sử là Bùi Mậu Tiên dâng sớ tâu rằng: “Các làng ở ngoài Bắc Thành nhiều kẻ hào cường trái phép, mà dân thì biếng nhác chỉ cờ bạc rượu chè; việc tế lễ quỷ thần thì hay dùng cách xa xỉ, việc táng tế thì chuộng đường xa hoa, thậm chí có kẻ bán sạch cửa nhà cơ nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân” [10, tr.181].
Vua Thánh Tổ xuống chiếu trách cứ các quan địa phương phải đem những điều huấn dụ đã ban ra trước mà khuyên bảo dân sự, và phải chuyển sức cho tổng lý: hễ thấy ai biếng nhác rong chơi cờ bạc rượu chè, thì phải cấm chỉ. Những kẻ hào cường trong làng mà ỷ thế hống hách điêu toa kiện tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình dân, thì phải theo phép mà trừng trị. Còn những lệ thờ thần và lễ tang tế thì Lễ Bộ đã định ra phép tắc, hễ ai không tuân theo thì phải tội.
1.1.3.2. Xã hội
Vua Minh Mạng là người tinh thông Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mạng rất quan tâm đến nền khoa cử, học vấn. Nhà vua thường nói:
“Đạo trị nước phải gây dựng nhân tài”.
Vua chăm lo cho đời sống của nhân dân, cho thành lập nhà Dưỡng Tế.
Vua Thánh Tổ không chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc Thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan quả, cô độc, và kẻ tàn tật không có nơi nương nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo. “Ông còn ban dụ cho lập
nhà dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người tàn tật, nghèo khổ, già cả và hoặc không nơi nương tựa. Triều đình cũng bắt quan lại ở các tỉnh phải xuất lúa giống ở kho cho dân nghèo vay để làm mùa sau, nhằm làm cho nông nghiệp không bị đình trệ và việc mất mùa không ảnh hưởng trong các năm sau” [1, tr. 124 - 125].
Năm 1821, ông đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp. Ông còn cho đặt đốc học ở thành Gia Định, ông giao trọng trách cho nhà giáo Nguyễn Trọng Vũ người Nghệ An, giữ chức Phó Đốc học chăm lo việc học hành ở Nam Bộ.
Bấy giờ, ở Gia Định có Trịnh Hoài Đức là người có học vấn cao nên được nhà vua tin dùng, phong làm Hiệp Biện Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Lại kiêm Thượng thư Bộ Binh.
Đời vua Thế Tổ thì chỉ có thi Hương mà thôi, đến năm Nhâm Ngọ (1822) là năm Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có từ đấy.
Nguyên trước cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, thi Hội, thi Đình. Phép thi thì vẫn theo như đời Gia Long, nghĩa là kỳ đệ nhất: kinh nghĩa;
kỳ đệ nhị: tứ lục; kỳ đệ tam: thi phú; kỳ đệ tứ: văn sách. Trước ai đỗ tam trường, gọi là Sinh đồ, ai đỗ tứ trường gọi là Hương cống, nay đổi Sinh đồ là Tú tài, Hương cống là Cử nhân.
Minh Mạng còn đặt ra lệ rằng ai được thăng quan, bổ nhiệm đều phải lên kinh gặp vua trước khi nhậm chức. Đây là cơ sơ để nhà vua kiểm tra đức độ, năng lực và khuyên bảo điều hay lẽ phải, cốt sao cho lợi ích nước nhà.
Năm 1836, ông cho thành lập “Tứ dịch quán” để dạy ngoại ngữ (tiếng Pháp, Xiêm).
Vua Minh Mạng muốn canh tân việc học hành thi cử nhưng lại không biết tiến hành ra sao bởi triều thần của ông chỉ toàn là những hủ nho lạc hậu,
không giúp đỡ được nhà vua trong một kế hoạch nào làm cho quốc phú, dân cường. Ông đã nói rằng: “Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử - nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau dần dần đổi lại” [24, tr.420].
Vua Thánh Tổ thật là biết rõ cái tật của những người đi học ở trong nước ta, nhưng chỉ vì thói quen lâu ngày khó bỏ. Vả lại dẫu có muốn đổi, thì dễ thường cũng không biết đổi ra thế nào cho hay hơn được, cho nên sự học của mình vẫn nguyên như cũ.
Sách vở: Vua Thánh Tổ mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vỡ; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử. Ngài lại lưu ý về việc tưởng lệ cho những người làm ra sách vở. Bởi vậy, ngài xuống chiếu: hễ ai tìm được sách cũ, hay làm ra sách mới, thì được ban thưởng. Tự đó ông Trịnh Hoài Đức dâng sách: Gia Định Thành Thông Chí và sách Minh Bột, Di Hoán Văn Thảo; ông Hoàng Công Tài dâng một bản Bản Triều Ngọc Phả, hai bản Kỷ Sự; ông Cung Văn Hi, người ở Quảng Đức dâng bảy quyển Khai Quốc Công Nghiệp Diễn Chí; ông Nguyễn Đình Chính người Thanh Hóa dâng 34 quyển Minh Lương Khải Cáo Lục; ông Vũ Văn Tiêu, người Quảng Nghĩa, dâng một quyển Cố Sự Biên Lục. Vua Thánh Tổ lại sai quan soạn xong bộ Liệt Thánh Thực Lục Tiền Biên, bộ Khâm Định Tiễu Binh Lưỡng Kỳ Phỉ Khấu Phương Lược, còn sách của ngài soạn ra có hai bộ là Ngự Chế Tiễu Bình Nam Kỳ Tặc Khấu Thi Tập và Ngự Chế Thi Tập.
Khi mới lên ngôi vua, Gia Long đã nói với đình thần: “Học hiệu là nơi chứa nhân tài, trẫm muốn bắt chước người xưa, đặt nhà học để nuôi học trò ngõ hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nổi để cho Nhà nước dùng” [2, tr.16].
Năm Đinh Mão (1807), vua Gia Long xuống chiếu: “Quốc gia cầu nhân tài tất do khoa mục. Ngã tiên triều khoa cử chi chế, đại hữu cử hành.
Hằng nhân Tây Ngụy thiết lộng, cựu điển đọa phế, sĩ phong nhân uất. Kim thiên hạ hướng bình, nam bắc đồng quỹ, khôi chương chính giáo, đản duy kì thần…” (“Nước nhà muốn tìm người tài tất phải do khoa cử. Khoa cử trong các đời trước, đời nào cũng có tổ chức. Trước đây vì Ngụy Tây trộm nước gây rối nên phép xưa bị phế bỏ, sĩ khí đều mất. Nay thiên hạ đã yên, Nam Bắc thống nhất, đúng là lúc khôi phục mở mang chính trị giáo hóa…”) [6, tr.56].
Năm 1807, vua Gia Long định lệ tháng 10 tổ chức thi Hương. Đó là kỳ thi đầu tiên ở triều Nguyễn. Đến thời Minh Mạng thì chế độ giáo dục khoa cử được đưa vào nề nếp hơn.
Năm 1820, Minh Mạng cho chỉnh đốn lại Quốc Tử Giám thành lập từ thời Gia Long, đặt học quan, định phép thi, lấy sinh viên, cấp học bổng, đó là ở Kinh kỳ, còn ở các doanh, trấn, châu, huyện, Minh Mạng cho tổ chức lại các trường học, chọn các bậc “lão sư túc nho làm trợ giáo”. Sĩ tử trước khi đi thi phải đến châu, huyện học tập, khi đã hơi thông kinh sách và biết làm văn thì cho đến doanh, trấn để đốc học dạy. Mỗi năm hai lần, trường này tổ chức những kỳ thi gọi là khảo khóa, chọn học trò đã tương đối thông thạo nghề văn chương cử tử mới để đi thi, riêng những người xuất sắc thì không phải chờ kỳ thi mà được vào thẳng Quốc Tử Giám. Đối với dòng tôn thất, Minh Mạng cũng chú ý hơn. Trước kia, Quốc Tử Giám chỉ thu nhận có 60 người hoàng phái nhưng Minh Mạng đã cho phủ Tôn Nhân duyệt lại những ai có đủ tư cách thì cho sát hạch rồi chia ra từng hạng bổ vào hàng ngũ “tôn học sinh viên”.
Năm Minh Mạng thứ tư (1823), nhà vua lại cho ban hành quy chế “Tập thiện đường” là nơi giảng dạy các hàng tử.
Năm Minh Mạng thứ 14 (1843), triều đình ban bố những thể lệ thưởng phạt như học trò khảo hạch, hoặc thi Hương phải ghi tên học ở đâu để bộ Lễ
có thể theo dõi việc dạy dỗ của học quan. Học trò trong hạt dầu đỗ nhiều nhưng không phải học của quan Huấn, quan Giáo địa phương thì cũng phải đưa ra xét rồi mới khen thưởng, nơi nào văn học mới nhen nhóm thì có châm trước… Đối với đốc học làm việc lâu năm và có thành tích thì được triệu về Kinh và đặc cách cho làm ty viên ở Lục bộ.
Thời Nguyễn, học trò sau khi học xong những cuốn sách như: Nhất thiên tự (một nghìn chữ), Tam thiên tự (ba nghìn chữ), Sơ học vấn tân (bắt đầu học hỏi bến), Ấu học ngũ ngôn thi (thơ năm tiếng để trẻ con học) đây là những sách cử ta soạn, ngoài ra còn học những sách của Trung Quốc như:
Thiên tự văn (sách một nghìn chữ), Hiếu kinh (của Tăng Tử), Minh tâm bảo giám (gương quý soi sáng cõi lòng), Minh đạo gia huấn (sách trong nhà của Minh Đạo tức Trình Hiệu đời Tống) và Tam tự kinh (sách ba chữ) - cuốn sách mà bất kỳ trẻ con nào mới đi học đều phải thuộc lòng. Sau đó mới bắt đầu học sang Tứ thư và Ngũ kinh là những bộ sách kinh điển của Nho giáo đồng thời là những tác phẩm văn học cổ đại của Trung Quốc.
Hệ thống giáo dục đào tạo:
Quốc Tử Giám: Trong hệ thống giáo dục đào tạo quan lại thời Nguyễn, Quốc tử giám là trường học do nhà vua lập ra ở kinh đô, được xem là trung tâm giáo dục - đào tạo ở tầm cỡ quốc gia. Từ thời Minh Mạng Quốc tử giám dành riêng cho học sinh đã có trình độ cử nhân, đào tạo tiến sĩ các loại qua thi hội.
Gia Long năm thứ 2 dựng nhà Quốc học gồm một chính đường, tả hữu đường.
Minh Mạng năm thứ nhất dựng nhà Quốc tử giám: giảng đường bảy gian hai chái, Di luân đường năm gian hai chái, hai nhà học bên Tả bên Hữu đều ba gian hai chái. Bốn chung quanh xây tường bằng gạch, phía trước phía sau đều mở một cửa.
Năm thứ bảy, dựng thêm phòng bên Tả bên Hữu cho giám sinh ở nhà Quốc tử giám, mỗi phòng 19 gian.
Để giảm bớt gánh nặng cho Quốc tử giám ở kinh đô, triều Nguyễn đã lập ra một số nhà học đươc giành riêng cho con cháu trong hoàng tộc.
Tập thiện đường: là tên của một nhà học dành riêng cho các hoàng tử, trường này được thiết lập vào năm Gia Long thứ 16 (1817), ngoài việc đặt ra Tập thiện đường Gia Long còn đặt ra giảng quan và viên tư giảng, chọn ngày tốt, sẽ làm lễ nhập học cho các hoàng tử. Năm 1823, Minh Mạng lại có chỉ chuẩn cho đình thần “ai vốn có học hạnh, giữ lòng công chính, có thể tham chức sư hữu, thì chỉ tên tiến cử, hai viên tam phẩm trở lên, sung chức hoàng tử giáo đạo, hai viên tứ phẩm, sung chức tán thiện, bốn viên lục thất phẩm, xung chức bạn độc để giúp việc học tập” [11, tr.55 - 56].
Nhà học: Minh Mạng năm thứ năm, chuẩn y lời đề nghị cho: các chánh, phó đốc học thành, doanh trấn vì là tiêu biểu cho nhân sĩ trong cả hạt nên nhà học được ưu đãi hơn, nhà học ở phủ huyện gồm một tòa giảng đường ba gian hai chái, lòng nhà dọc ngang đều sáu thước bốn tấc, cột cái cao 10 thước năm tấc, một tòa nhà vuông một gian hai chái, lòng nhà dọc ngang đều bảy thước, cột cái cao 10 thước năm tấc. Nhà học ở phủ cùng kiểu như nhà học ở tỉnh. Nhà học ở huyện gồm một tòa ba gian hai chái, dài ba trượng chín thước, rộng hai trượng sáu thước, bốn tấc, cột cái cao 10 thước năm tấc, không có nhà vuông.
Lại chuẩn y lời đề nghị về việc xây dựng nhà học ở các hạt. Hạt nào binh lính hơi gần thì nhà đốc học bắt 70 tên, còn nhà học phủ, huyện bắt 50 tên ủy cho nhân viên sở thuộc đốc suất xây dựng. Nếu không tiện phái lính thì chuẩn y cho theo lệ ấy bắt dân trong hạt ủy cho một tên cai tổng đôn đốc làm.
Còn binh hay dân đều cho phép cấp một quan tiền, một phương gạo, hạn một tháng làm xong thì thôi.
Năm thứ 10, theo lời đề nghị, chuẩn y cho nhà học các hạt, cứ sáu năm một lần chi tiền công đặt mua các loại cỏ tranh cần dùng để lợp.
Năm thứ 14, theo lời tâu, chuẩn y cho giảm quy thức nhà học. Giảng đường ở tỉnh, học đường ở phủ, lòng nhà dọc ngang đều sáu thước, một tấc,
cột cái cao 10 thước năm tấc, nhà học ở huyện lòng nhà dọc năm thước một tấc, lòng ngang sáu thước, cột cái cao cũng thế. Còn học đường vuông ở tỉnh thì theo như cũ.
Năm thứ 17, theo đề nghị, chuẩn y cho: qui thức nhà học giảm đi so với kiểu cũ, để dài rộng đều năm thước chín tấc, còn nhà học các vật liệu đã xây dựng, thì cho phép để như cũ. Khi có tu bổ lớn làm lại thì phải theo kiểu mới mà làm.
Nhà Nguyễn rất quan tâm đến giáo dục khoa cử. Họ tin tưởng rằng, nền khoa cử sẽ giúp họ chọn lựa ra được những nhân tài giúp ích được cho đất nước trong hoàn cảnh xã hội đương thời.
Với những cải cách về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đặc biệt là về giáo dục Nho học đã tạo tiền đề, là cơ sở cho sự phát triển của khoa cử dưới triều vua Minh Mạng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Nói đến khoa cử ở nước ta là phải nói đến một chặng đường dài mười thế kỷ từ khi mở khoa thi đầu tiên năm Ất Mão (1075) dưới triều Lý và kết thúc ở khoa thi năm Kỉ Mùi (1919) đời vua Khải Định triều Nguyễn.
Thời kỳ đầu khoa cử còn chưa ổn định, mới chỉ có thi Hương và thi Khảo hạch, thể lệ, quy chế thi còn chưa rõ ràng. Đến thời nhà Trần, việc tổ chức khoa cử đã rất kỹ càng, phép thi đa phần mô phỏng theo lề lối khoa cử nhà Minh ở Trung Quốc. Đến thời Lê Sơ việc khoa cử tạm gọi là hoàn bị.
Thời kỳ này đã tổ chức các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, thi Tiến sĩ, quy chế, thể lệ rõ ràng, nội dung thi cử chặt chẽ, ngoài ra còn đặt ân điển cho người thi đỗ như: lệ vinh quy bái tổ, khắc tên trên bia tiến sĩ, phân bổ cấc chức quan hợp lý… Khoa cử thời Lê Sơ đã trở thành khuôn mẫu cho các thời kỳ sau học tập, phát triển.
Thời vua Minh Mạng với các chính sách cải cách về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đặc biệt là giáo dục như: cho lập Quốc Tử Giám, Tập thiện đường, Nhà học, khuyến khích tìm sách cũ và viết sách mới… chú trọng phát triển giáo dục, khoa cử để tìm kiếm nhân tài.
Với những nét khái quát trên cho thấy khoa cử thời phong kiến trước thời Minh Mạng cùng các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đương thời là tiền đề, cơ sở cho sự phát triển cử khoa dưới triều vua Minh Mạng (1820 - 1840).