Về ân điển dành cho người đỗ đạt

Một phần của tài liệu Khoa cử việt nam dưới triều vua minh mạng (1820 1840) (Trang 92 - 96)

Chương 2 KHOA CỬ DƯỚI TRIỀU VUA MINH MẠNG (1820 - 1840)

2.4.3. Về ân điển dành cho người đỗ đạt

Việc thi cử ngày xưa hết sức khó, người dự thi rất nhiều nhưng người đỗ lại rất ít. Vì vậy, đối với những người thi đỗ, triều đình phong kiến ban thưởng cho họ rất nhiều ân huệ nhằm tăng thêm sự vinh quang cho họ và cũng tỏ rõ nhà nước rất coi trọng nhân tài, đồng thời khuyến khích việc học tập, thi cử trong cả nước. Thời Minh Mạng những người đỗ đạt cũng được hưởng rất nhiều ân điển như: tham dự Lễ truyền lô, được ban yến, thưởng hoa, ngắm đường phố kinh thành, ân tứ vinh quy, được bổ dụng làm quan và được khắc tên trên bia Tiến sĩ. Một điều đặc biệt ở thời Minh Mạng là ở các triều đại trước thí sinh thi đỗ thì được bổ dụng làm quan nhưng dưới thời Minh Mạng những người không thi đỗ kỳ hội thí vẫn được bổ dụng. Những thí sinh thi hỏng nếu xin về nguyên quán cũng đều được chấp nhận, số còn lại nếu có

nguyện vọng đều được ban ân cho vào học ở Quốc Tử Giám, những Cống sinh cũng được hưởng lệ này. Có năm vì số đỗ Cử nhân ít nên vua Minh Mạng chuẩn cho 20 Cử nhân trượt ở Hội thí ở lại Kinh học chính sự rồi lại được Bộ Lại cử làm Hành tẩu ở các bộ.

Việc dựng bia Tiến sĩ đã có từ đời Lê Thánh Tông nhưng thời Nguyễn từ Minh Mạng trở đi mới tổ chức thi Đình nên bia Tiến sĩ mới bắt đầu được dựng. Ngoài bia Tiến sĩ văn thì từ thời Minh Mạng còn có bia Tiến sĩ võ. Bia đề Tiến sĩ ở Huế nhỏ hơn ở Quốc Tử Giám Hà Nội và đơn giản hơn rất nhiều nhưng có tác dụng biểu dương khích lệ tinh thần học tập của sĩ tử.

Nhìn chung thì khoa cử thời Minh Mạng đã chặt chẽ và tiến bộ hơn các thời kỳ trước. Tuy nhiên quy chế thi cử vẫn dựa trên quy chế thời Lê và quy chế khoa cử của nhà Minh. Đối tượng dự thi được mở rộng hơn nhưng vẫn chỉ có nam giới được tham gia thi, đặc biệt những người thân thuộc với giặc hoặc đang chịu tang không được tham gia thi. Việc mở rộng thi cử cho tất cả mọi tầng lớp, mọi đối tượng tạo điều kiện cho nhân dân tham gia dự thi lấy học vị và cũng giúp nhà nước tuyển chọn được nhiều nhân tài. Nội dung học tập chú trọng tới Quốc học song vẫn còn bị chi phối bởi Nho giáo từ hệ tư tưởng đến lề lối thi cử. Thể lệ thi cử được bổ sung điều chỉnh từ thể lệ thời Lê và có thêm nhiều lệ định rõ ràng, chặt chẽ, phù hợp hơn với tình hình đất nước lúc bấy giờ

Tóm lại:Vua Minh Mạng rất chú trọng vào việc văn trị, học văn để lấy nhân tài vào việc trị nước an dân. Ngài mở Quốc Tử Giám và cấp lương bổng cho các giám sinh. Thời Minh Mạng 3 năm mở một khoa thi, cứ năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội, thi Đình. Hai khoa thi này mở ra để lấy Tiến Sĩ, đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829), nhà vua lấy thêm Phó Bảng ở những người trúng cách.

Vua Minh Mạng có một quan niệm rất sáng suốt về việc học. Ngài thấy lối học cử nghiệp chỉ chuyên về thi phú phù phiếm để thi lấy đỗ chứ không

thể có một thực học là một lối học đi tới chỗ thấu đáo nhân tình, am hiểu việc đời một cách thực tế để mở mang xã hội, nâng cao trình độ dân sinh. Vua Minh Mạng nói: “Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử - nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó.

Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại” [24, tr.420].

Ngài chăm lo văn hóa, khích lệ việc tu thư bằng những sự ban thưởng, cho nên vào thời Ngài nhiều sách có giá trị được ra đời như:

1) Gia Định thống chí

2) Minh bột di hoán văn thảo của Trịnh Hoài Đức

3) Bản triều ngọc phả và 2 bản Ký sự của Hoàng Công Tào 4) Khai quốc công nghiệp điển chí (7 quyển) của Cung Văn Hi 5) Minh lương khải cáo lục của Nguyễn Đình Chính (34 quyển).

6) Cố sự biên lục của Vũ Văn Bưu

7) Khâm Định tiểu bình lưỡng kỳ phỉ khấu phương lược

8) Ngự chế thi tập... (2 cuốn sách này do các quan họp lại cùng soạn) Ngoài ra, Ngài còn giải quyết được nhiều việc khác không kém phần quan trọng như sửa đổi phong tục vì trải bao nhiêu thời loạn ly, trật tự xã hội đổ nát, nhân tâm đồi bại. Ngài lập ra 10 điều răn bảo dân chúng để gây lại tinh thần luân lý của trăm họ.

Mặc dù các chính sách đều dựa trên các chính sách của nhà Thanh ở Trung Quốc. Mặc dù ở thời kỳ này nhà Thanh đã có nhiều suy yếu và lạc hậu.

Tuy nhiên với xã hội Việt Nam đương thời thì nó là lại một sự đổi mới, một luồng gió mới, một sự thay đổi phù hợp.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Thời Minh Mạng, việc học hành, khoa cử rất được chú trọng. Vua Minh Mạng ý thức được rằng muốn củng cố đất nước thì phải chọn được nhiều người tài giúp sức. Tuy nhiên việc học hành, khoa cử thời Minh Mạng vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo từ hệ thống sách vở để dạy học, hệ tư tưởng đến lề lối thi cử.

Triều đình mở các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình để tuyển chọn người tài. Trước kỳ thi Hương thì tổ chức thi Khảo thí, những người đủ điều kiện mới được thi tiếp.

Dưới thời Minh Mạng tổ chức được 2 kỳ ân khoa, không có chế khoa.

Thi cử được tổ chưc cho đối tượng là nam giới từ 18 tuổi trở lên ở mọi tầng lớp tham gia. Mặc dù là sự kế thừa và phát huy của các triều đại trước nhưng khoa cử đời Minh Mạng đã quy cử và chặt chẽ hơn, quy chế thi cử rõ ràng, nội dung học tập và thi cử được chú trọng.

Những người dự thi sau khi đỗ đạt được ban yến, ngắm hoa, ngắm đường phố kinh thành, ân tứ vinh qui, được bổ dụng các chức quan, được ghi tên trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu. Những người không thi đỗ được về quê hương học tiếp hoặc được ân chuẩn cho ở lại Quốc Tử Giám tiếp tục học tập.

Mặc dù khoa cử còn nhiều lạc hậu nhưng tại thời điểm lịch sử của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ thì đó là một sự đổi mới, một sự phát triển vượt bậc trong quy cách, lề lối học tập, thi cử nhằm tuyển chọn được nhiều người tài giúp nước.

Một phần của tài liệu Khoa cử việt nam dưới triều vua minh mạng (1820 1840) (Trang 92 - 96)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(111 trang)