Chương 2 KHOA CỬ DƯỚI TRIỀU VUA MINH MẠNG (1820 - 1840)
2.2. NỘI DUNG KHOA CỬ
2.2.1. Nội dung đề thi
2.2.1.1. Thi Hương
Sau khi thí sinh vào trường thi, các quan trường Chánh, Phó Chủ khảo, Giám khảo, Phân khảo, Phúc khảo, Sơ khảo hội họp tại nhà Thập đạo để ra đề thi. Đề thi ra ngay tại trường như vậy để tránh tiết lộ. Đề được chép một hoặc hai bản dán ở cổng của mỗi vi. Riêng đề Văn sách dài nên thường được chép dán ở mỗi vi ba đến bốn bản để tránh thí sinh chen lấn. Thông lệ ở trường thi vào giờ Mão hai khắc (chừng 5 giờ 30 phút sáng) có trống đánh bảo hiệu đã ra đề. Thí sinh tụ tập tại các cổng chép đề mang về chỗ mà làm bài.
Tuy lối văn ở trường thi gồm Kinh nghĩa, Văn sách, Chiếu biểu, Thơ phú nhưng cũng đổi thay trước sau tùy theo khoa thi. Kỳ thi Hương đầu tiên vào năm Gia Long thứ 6 Đinh Mão (1807), trường nhất thi Kinh nghĩa gồm 5 đề thuộc Ngũ Kinh, 1 đề thuộc Truyện. Trường nhì thi Chiếu biểu làm theo
lối văn Tứ lục. Trường ba thi Thơ và Phú. Thơ làm thơ Đường luật, Phú làm bài tám vần. Trường tư thi Văn sách. Đến năm Minh Mạng thứ 3 Nhâm Ngọ (1822), trường nhất thi Kinh nghĩa cũng gồm 6 đề (5 đề về Kinh, 1 đề về Truyện). Trường nhì thi Chiếu biểu làm theo lối Tứ lục. Trường ba thi Thơ phú gồm một bài thơ ngũ ngôn luật, một bài Phú tám vần. Trường tư thi Văn sách 10 đoạn về cổ, ba đoạn về kim.
Các môn thi gồm có:
Kinh nghĩa: Kinh chỉ sách của Thánh nhân làm ra. Ở đây chỉ đề cập đến sách Nho gia do Khổng Tử hoặc môn đệ hoặc những người nối tiếp Khổng Tử soạn ra. Truyện tức phần chú giải, giảng rõ ý nghĩa của Kinh. Thí sinh ngày trước chỉ học Tứ Thư và Ngũ Kinh, tức gồm Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu, Lễ Ký. Lệ thi Hương quy định phần Truyện hai đề. Truyện ở đây tức chỉ Tứ Thư, một đề lấy trong sách Đại Học hoặc Trung Dung, một đề lấy trong Luận Ngữ hoặc Mạnh Tử. Còn lại năm đề thì mỗi Kinh mỗi đề, tức một đề Thi, một đề Thư, một đề Xuân Thu, một đề Dịch, một đề Lễ Ký. Nhưng thí sinh không cần phải làm hết thảy, mỗi một người bó buộc ít nhất phải làm ba đề mà trong đó hoặc 2 Truyện 1 Kinh hoặc 2 Kinh 1 Truyện. Còn những người có khả năng có thể làm nhiều hơn, từ dùng trong thuật ngữ về thi cử gọi là “Kiêm trị”.
Đề ra thường là một câu tích trong Tứ Thư và Ngũ Kinh, thí sinh phải giải thích cho thật rõ rang ý nghĩa câu đó. Bài làm mỗi đề ít nhất là 250 chữ và ý chỉ của Kinh cũng phải giải thích theo các Nho gia thời trước như:
- Kinh Dịch phải theo lời chú giải của Trình Di hoặc Chu Hy.
- Kinh Thư phải theo chú giải của Sái Trầm.
- Kinh Thi phải theo chú giải của Chu Hy.
- Kinh Xuân Thu phải lấy Tả truyện làm chính, còn phải dựa vào Công Dương truyện, Cốc Lương truyện hoặc Hồ truyện.
- Lễ Ký dựa vào chú giải của Trần thị Tập thuyết.
- Tứ Thư thì dựa vào Chu Hy Tập chú.
Chiếu, Biểu, Luận:
- Chiếu là lời vua ban cho thần dân.
- Biểu là bài văn của quan dân trình lên vua, hoặc bản thân vua trình lên trên (như Thái Hậu, Thái thượng hoàng).
Chiếu Biểu trong khoa thi được làm theo lối Tứ lục (bốn sáu), trong bài gồm những câu đối nhau gọi là vế. Mỗi vế chia làm hai đoạn trước bốn chữ sau sáu chữ hay trước sáu chữ sau bốn chữ.
- Luận: Dùng lí lẽ dần giải bàn rộng vấn đề nêu ra ở đề bài. Thường dùng những chuyện xưa trong Kinh sách hoặc trong Sử để làm sáng tỏ đề bài.
Luận thường làm theo văn xuôi.
Văn sách: thường chia làm hai loại:
- Văn sách mục: Đầu bài thật dài, đem nhiều vấn đề để hỏi, dẫn Kinh Truyện cùng Sử có liên quan đến đề để hỏi. Ngoài ra cũng hỏi đến những việc hiện tại.
- Văn sách đạo: Đề bài ngắn, hỏi riêng từng việc.
Khi làm Văn sách thí sinh phải theo từng câu gỏi mà đáp, cần dẫn giải rõ rang, bày tỏ ý kiến của mình. Nhiều khi đề ra hỏi lung tung vấn đề này qua vấn đề khác, thí sinh phải gở mỗi lần lần, trả lời sao cho khỏi sót.
Thơ và Phú: Trong khoa cử, Thơ bắt buộc làm thơ lối Đường luật. Ở kỳ thi Hương thì thường đề ra thơ Thất ngôn (bảy chữ mỗi câu).
Phú là thể văn có vần hoặc độc vận hoặc liên vận, có bằng trắc, có bố cục.
2.2.1.2. Thi Hội
Đề thi Hội được các văn thần hoặc chính tay vua ra. Thi Hội có lúc thi ba trường, có lúc thi bốn trường. Khoa đầu tiên năm Minh Mạng thứ ba, trường nhất thi Kinh nghĩa sáu đề, gồm năm đề về Kinh, một đề về Truyện,
Thí sinh phải làm ít nhất hai đề một Kinh và một Truyện còn nhiều hơn thì tùy. Trường hai thi Chiếu, Biểu, Chế mỗi loại một đề. Trường ba thi Thơ phú, Thơ thì một bài ngũ ngôn luật tám vần, một bài phú. Trường tư thi Văn sách.
Nói chung thì các môn thi ở kỳ thi Hội cũng giống như kỳ thi Hương chỉ khác là phải làm dài hơn, hoặc đề hỏi kỹ càng hơn, lúc chấm bài thì đòi hỏi cao hơn mới đủ điểm.
Thi Hương cũng như thi Hội, phần Thơ và Phú rắc rối nhất là ở vần trong bài làm, gieo lạc vận tất nhiên bị đánh hỏng. Ở trường thi các quyển Thi vận được ban cấp cho các quan trường. Vận thơ có nhiều lúc in cấp phát cho thí sinh hoặc viết dán tại bảng trong trường hợp thí sinh quá đông. Ngoài ra, cũng cho dùng những vận thông nhau, như bộ “Nhất Đông” lẫn với bộ “Nhị Đông”, bộ “Tứ Chi” lẫn với bộ “Ngũ Vi”…
Đề thi ở kỳ Phúc hạch tùy khoa thi ba trường hoặc bốn trường mà ra.
Nếu chỉ thi ba trường tức mất một đề thi về Thơ và Phú, nên ở kỳ Phúc hạch thường ra Thi phú có thể thêm một phần Văn sách nữa. Còn khoa thi bốn trường, thì kỳ Phúc hạch chỉ ra đề Văn sách.
Kỳ Hội thí phần lớn đề do vua ban, nghi lễ đưa đề thi đến trường thi cũng rắc rối. Chiều ngày hôm trước của ngày thi, quan bộ Lễ chuẩn bị Long đình với tán lọng, nghi trượng cùng nhã nhạc ở tại ngoài Đại Cung Môn. Đến canh tư khắc đầu tiên (chừng 1 giờ 30 sáng), quan Nội Các chép Ngự đề, sau khi đóng ngọc tỉ Khâm văn, cuốn bỏ vào trong ống Kim phụng. Đến canh tư năm khắc (chừng 2 giờ 30), mở cổng Đại Cung Môn (việc này quan trực phải lãnh môn bài trước để đến giờ thì mở), quan trông coi việc cho bày Long đình cùng nghi trượng nơi thềm của gian chính giữa thuộc điện Cần Chánh. Một viên quan bộ Lễ và một đường quan thuộc Nội Các vận triều phục đứng chờ, rồi quan Nội Các mang ống Kim phụng đặt ở Long đình. Đội Loan nghi với tán lọng gánh Long đình với nhã nhạc và nghi trượng hộ tống đến trước cổng
trường thi. Quan phụ trách đám rước theo lệ cho nổi 3 tiếng hiệu lệnh. Chánh, Phó Chủ khảo cùng các quan Tri cống cử đều vận triều phục quỳ ở bên trái phía trong cổng trường thi để đón tiếp, khi Long đình ngang qua thì khấu đầu.
Rồi đi theo Long đình đến Thí viện. Quan bộ Lễ đem ống Kim phụng đặt tại Hoàng án đã thiết sẵn tại gian chính giữa Thí viện. Các quan Chủ khảo cùng Tri cống cử đều đến làm lễ 5 vái. Xong xuôi quan bộ Lễ và đường quan Nội Các cùng nghi trượng lui ra khỏi trường. Quan trường thi mang Ngự đề xuống để sao chép ban cho thí sinh. Đến chiều, quan bộ Lễ cùng quan Nội Các và các thuộc viên lại theo lệ rước Ngự đề về Nội Các để cất giữ.
2.2.1.3. Thi Đình
Đề thi Đình là bài Văn sách do vua ban. Thể lệ rước đề thi cũng chẳng khác gì kỳ thi Hội. Nhiều năm thi xong chấm xong, vua chưa được bằng lòng lại cho thi lần nữa. Đề vua ra thường hay hỏi về việc đế vương dùng người, các biện pháp để làm ích dân lợi nước… muốn thông qua các đề này đánh giá tầm chiến lược và tài chính trị của từng người sẽ là tay chân thân tín của nhà vua hay người kế nghiệp nhà vua trong thời gian sắp tới.
Khoa Mậu Tuất năm thứ 15 niên hiệu Minh Mạng, vua ra đề thi, nội dung đề thi hỏi về phép trị nước của nhà vua và của các đế vương Trung Quốc xưa “Nối trời trị nước, hoàng đế chế rằng: Từ xưa đế vương muốn được thiên hạ tri bình, tất phải theo thời, lường Việt, sáng chế, lập phép, để làm cho hết công việc trong nước. Hồng - phạm một thiên, mối lớn và phép lớn để cai trị thiên hạ đều ở trong ấy, tìm ra cái lý giữ gìn muôn hóa, tổng quát chính loài, nên lấy điều gì làm rất đầy đủ? Có người bàng rằng, Hồng - phạm để thế đạo thường, lập căn bản, tam đức để thông biên và xu thời, thế thì chính, trực, cương, nhu quả nhiên cùng với các phép lớn có tác dụng khác nhau mà cùng chung một thể hay sao? Chính trị của các đời Đường, Ngu, Tam đại, rất là trác Việt, làm phép cho muôn đời, đều được ghi chép ở các kinh, tức như các
việc định Lễ, Nhạc, sáng luật lịch, kinh lý bờ cõi, thiết lập học quan, chia ruộng, định thuế, dụng nhà học, nuôi học trò, cùng với phép tắc tuyển cử khảo hạch, quy chế binh nhung, hình phạt vân vân, đều xây dựng có căn bản, tiến hành có thứ tự, có thể nói rõ ra được không? Tường tận về giáo hóa, người bần luận trong đã phân biệt, nhưng xét về công hiệu tri bình của các đời kể trên, thì cảnh tượng sáng suốt, thái bình, ngàn năm thường như một ngày, thế là tại làm sao? Các triều đời Đường, Tống, Minh nối lên, lúc sáng nghiệp, khi thủ binh, có nhiều vua sáng, chúa tốt, không triều đại nào không có một pháp chế, thế mà xét đến công nghiệp tri bình họ làm nên được đều rốt cục không kịp đời xưa, há rằng, điều trọng yếu trong việc trị nước, có khi không quan hệ gì đến pháp chế chăng? Trong đó, cái gì đúng, cái gì sai, các ngươi có thể nêu lên rõ rang mà nói ra không?” [28, tr.1].
Bài thi của Nhị tiến sĩ xuất thân Phạm Văn Nghị có viết: “Thần xin thưa, thần nghe rằng: Cai trị thiên hạ phải có đạo, phải có phép. Đạo là con đường để đi đến sự tri bình tức là việc sáng chế, lập phép và lập cương, trần kỷ vậy. Có đạo mà không có phép tức là thiện suông, có phép mà không có đạo tức là phép suông, dù muốn trị lý cho hay cũng không thể được. Tất cả do ở thể chất mà đạt đến công dung, lấy đạo làm gốc để thi hành chính sự, cai trị, thì việc tri yên có khó gì đâu! Nếu mà các sách Ngũ kinh nói, là phát minh việc ấy, điều mà các đế vương thi hành, cung là bắt gốc từ việc ấy. Do đó mà xét cho cùng, thì các triều Hán, Đường, Tống, Minh, dù cho các quy chế của một triều đại, mà chưa thuần túy như đạo của tiên vương, cho nên rốt cuộc không thể hưng thịnh như đời xưa. Cầu cho được một triều đại gồm đủ đạo và phép, sánh kịp năm đế, ba vua và xem kinh những triều đại cận thế không thèm làm, thì chưa bao giờ được như ngày nay ” [28, tr.3].
Cũng trong đề thi năm này, nhà vua cũng đưa ra câu hỏi, hỏi về các cải cách của mình, hỏi người thi đánh giá như thế nào về những cải cách và phép
trị nước của nhà vua, nó đã đến với dân chúng và được dân chúng tuân theo chưa? “Trẫm kính thừa nghiệp trước, thuận nối công to, dậy sớm thức khuyên, chăm căn trị lý. Nghĩ dân sinh chưa thỏa thì bớt thuế, ban tha, đề gia ân cho dân nghèo, không biết rằng, ơn đức đã xuống tận dưới chưa? Và nhân dân đã an cư lạc nghiệp chưa? Sợ “lại trị” chưa tinh, thì truất răn, khuyên thương, để khích lệ người làm quan không biết rằng bọn tham nhũng đã được khuyên răn chưa? Và quan lại, quả đã biết noi theo pháp luật và giữ gìn liêm yết chưa?” [28, tr.2].
Hay những chính sách của nhà vua có được nhân dân và quan lại thi hành hay không “Uốn cho giáo hóa được rộng khắp thì tổng lý các nơi đều được ban lời huấn thị dạy dỗ, để cho chúng bỏ điều dan ngoan trở lại thuần pháo, không biết quả đã nhà thông hiểu mà nối lên phong tục nhân nhượng chưa? Uốn cho phong tục được đồng đều, thì các châu huyện ở biên thùy đều đặt quan kinh cai trị, để cho họ đổi tục thổ thành người kinh, không biết quả đã tai mắt thấm nhuần, mà dần dần thay mặt đổi lòng chưa? Vả chăng, gần đây, các tỉnh Bắc Kỳ đều đã, trộm cướp lặng im, dân vật yên ổn, được mùa luôn năm, dần nên dồi dào, thế mà nhân dân ở những nơi thôn dã yên định rồi, vẫn mắc lừa bọn Gia - tô tả đạo, chưa phải hết thảy đã rửa lòng, lại còn một vài tên trốn tránh ở vùng Hưng - Hóa, Tuyên Quang, hãy còn trộm chút sống thừa ở nơi rừng núi, chưa nộp mình hết. Phải chăng là vì tà thuyết dỗ lầm người ta, non cùng khó lòng bắt cọp, hay là vì quan lại địa phương thừa hành bất lực? Xét ra, muốn nuôi dân thì trước phải xử lý bọn quan lại cho đúng, mà làm chính sự, căn bản ở chỗ chon người. Nay muốn, quan tốt, dân yên, giáo hóa đồng đều, phong tục tốt đẹp, dựng lên pháp luật mà không ai phạm, hình phạt bỏ không mà chẳng dùng đến, để thu được công hiệu trường trị cứu an, thì thứ tự thi hành trước sau, châm chước mà làm, cần phải thế nào để cho thích đáng? Các ngươi ôm ấp tài học lâu ngày, đang lúc kịp thời
hiệu đạt, hãy hết lòng đối đáp, đừng phù phiếm, đừng sơ lược, trẫm sẽ thân hành đọc xem” [28, tr.2].
Bài thi của Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Phạm Văn Nghị có viết “Thần kính nghĩ rằng, đức hoàng đế bệ hạ, thông minh nối trước, thành kính ngày thêm. Đủ truyền thống tinh nhất chấp trung; dựng tiêu chuẩn đăng bình chính trực. Xây dựng kinh luân phép diện sánh Cao minh, dày rông thật vô cùng;
trung hòa nuôi dương công cao, cùng che chở sinh thành mà hợp đức. Vốn đã rực rỡ nhiều mầu rạng bề chính yếu; ơn to hiền hóa, khắp cõi trời Nam vậy.
Thế mà vẫn, một lòng khiêm tốn; nhỏ mọn không quên. Lòng chí thiện vô cùng; lời nói gần vẫn xét. Trong lúc muôn việc rảnh rỗi, gọi chúng thần đến sân, mà hỏi về đạo chính trị và mọi việc phải trái xưa nay…” [28, tr.3].
“Cúi đọc chế sách có nói: từ xưa đế vương, muốn được thiên hạ trị bình, tất phải theo thời lượng việc, sáng chế lập pháp, để làm cho hết công việc trong nước, rồi lại hỏi đến lời huấn thị ở trong kinh điển, cách trí trị của các đế vương, cùng với mọi điều phải trái của các triều Hán, Đường, Tống, Minh. Lời nhà vua nói lớn lao thay! Thật hiểu rõ bản thế của đạo cai trị vậy…” [28, tr.4].
“Lời chế văn sách của nhà vua lại nói đến việc kịp theo nghiệp trước, thuận nối công to, dậy sớm thức khuya, chăm cần trị lý và nhắc đến việc nhân dân được ổn định… Thần ngước thấy tấm lòng cầu thị của hoàng thượng và cái đạo cai trị của hoàng thượng, không một việc gì không chu chí, tường tận, chẳng qua tạm dùng việc ấy để thử chúng thần mà thôi… Lo dân sinh chưa thỏa, thì bớt nhẹ thuế khóa, luôn năm ban tha, làm ơn cho dân, cùng thật là rất mực, những người nhờ ơn nuôi dưỡng, chắc là các nơi điền dã đều yên.
Sợ lại trị chưa tinh, thì truất bọn tham nhũng, khen kẻ thanh liêm, khuyến khích những nguời làm quan, thật là rất mực, những ai thấy thưởng phạt sáng suốt, chắc cũng đã chăm lo chức vụ… Thần nghĩ rằng, giáo hóa của thánh
triều rộng lớn, nhân dân rốt cuộc đâu có bị lừa dõi theo người Tây, chưa rửa sạch nỗi lòng, là vì tập nghiệp lâu năm chưa thoát vội được mà thôi, lâu ngày giáo hóa nên, phong tục định, thiên lương sẵn có của họ được câm phát, thì bọn tả đạo sẽ hết phương quyến rũ… quan lại được kén chọn cẩn thận, thì quan xứng dân an, thánh giáo được truyền bá khắp nơi, thì hóa đồng tục tốt.
Như vậy thì người có lỗi sẽ sửa đổi, phép dù có mà không ai phạm, chính sự chẳng ai can phạm, hình bó không đụng đến, muốn thu lấy công hiệu trường tri cứu an…” [28, tr.8 - 9].