Đối tượng dự thi

Một phần của tài liệu Khoa cử việt nam dưới triều vua minh mạng (1820 1840) (Trang 54 - 59)

Chương 2 KHOA CỬ DƯỚI TRIỀU VUA MINH MẠNG (1820 - 1840)

2.1. QUY CHẾ KHOA CỬ

2.1.3. Đối tượng dự thi

Các vua nhà Nguyễn mở rộng điều kiện dự thi cho tất cả mọi tầng lớp:

tú tài, cử nhân chưa bổ dụng, quan lại thuộc ngạch giáo chức (muốn dự thi Hương để đạt học vị cao hơn) kể cả dân thường, binh lính, trừ người làm nghề

“xướng ca”, những người có tội “bất hiếu, bất mục”, “loạn luân”, “điêu toa”.

Việc thi cử cũng như các triều đại trước chỉ dành riêng cho nam giới.

Từ thời Minh Mạng trở đi việc khảo hạch quy định chặt chẽ hơn. Năm 1825 nhà vua quy định hàng năm lấy ngày 15 tháng 4 và tháng 10 làm khảo hạch. Nội dung khảo đủ đề mục của bốn trường, để người dự khảo tùy theo trình độ chọn làm. Học quan huấn đạo tiến hành sơ khảo, sau đó giao cho quan tế tửu, tư nghiệp chấm lại. Thí sinh phải qua bốn năm, tám kỳ khảo hạch làm đủ văn thể bốn trường mới đủ điều kiện đi thi. Người đỗ được xếp hạng, cho miễn trừ binh đao như lệ một năm hoặc nửa năm để tỏ ý nhà nước bồi dưỡng để đợi khoa thi. Đối với những người đã dự thi Hương mà trúng trường nhất, trường nhì thì cho về học tập để đợi đến khoa thi, thường năm cũng phải dự khảo hạch.

Học sinh ở tỉnh nào thì khảo ở tỉnh đó. Thí sinh lọt qua vòng khảo mới được thi Hương. Chỉ có những người đã đỗ qua kỳ thi Hương với học vị cử

nhân, mới được dự thi Hội tổ chức ở Kinh đô để lấy học vị tiến sĩ, tiếp đến thi Đình để xếp loại.

2.1.3.1. Thi Hương

- Về lí lịch và đạo đức: những nhà phường chèo con hát và những hẻ phản nghịch, ngụy quan có tiếng xấu thì thì bản thân và con cháu đều không được dự thi. Thí sinh phải nộp giấy “Thông thân cước sắc” (tức lí lịch) khai rõ phủ huyện xã, tuổi tác cùng là chuyện học kinh nào, lí lịch ông cha ra sao, không được gian dối giả mạo.

Bản thân phải có đạo đức tư cách tốt. Kẻ nào bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân, điêu toa… thì dẫu học giỏi văn thơ hay cũng không được dự thi.

Nếu có tang cha mẹ thì phải cư tang đủ ba năm không được dự thi, nếu giấu giếm đi thi thì bị tước bỏ kết quả thi… Điều kiện về hành chính: Trước thời gian thi bốn tháng, những thí sinh muốn dự thi phải ghi danh tại Lý trưởng nơi địa phương mình cư trú. Những thí sinh phạm vào những điều lệ sau đây sẽ không được dự thi:

- Đang chịu tang cha hoặc mẹ.

- Đang chịu tang ông bà nội, nếu mình là người thừa trọng.

- Những người ngoại tỉnh đến trú ngụ học thi (phải về thi tại quê quán).

Riêng không áp dụng cho những người theo cha ông đi trấn nhậm ở xa.

- Những người bất hiếu, bất mục (không hòa thuận với anh em), gian dâm, bạo tàn.

- Thân thuộc với những người phạm tội chém, giảo (thắt cổ), đi đày, sung quân (dù những người này đã được tha về). Ở trường hợp thân thuộc phạm tội nhẹ hơn sẽ cứu xét.

- Thân thuộc với giặc: Thân thuộc với giặc chia làm bốn khoản:

Giặc là chánh yếu phạm, tức mang những chức tước lớn như gọi là Thượng công, Minh chủ, Tham tán, Thượng thư, Nguyên súy… (chưa kể đã

bị xét xử hay chưa): Từ con cho đến cháu đến chắt và những người chịu tang từ chín tháng trở lên (nếu người làm giặc nay đã mất) sẽ bị cấm thi. Dù người phạm tội này có ra đầu thú, được khoan dung, những người thân kể trên không được dự thi.

Riêng những người thân thuộc chịu tang từ năm tháng trở xuống tức chịu lệ tang tiểu công (nếu người giặc này chết) thì vẫn cho dự thí. Luật này vẫn áp dụng cho tất cả những người thân thuộc dù vào thời điểm đó còn rất nhỏ, khi lớn lên cũng chịu ảnh hưởng.

Nếu kẻ thứ phạm, tức những kẻ mang chức tước của giặc từ Chánh, Phó Đề đốc; Tả, Hữu tướng quân; Chánh, Phó thống tướng; Tham mưu… trở xuống đến những chức như Quản vệ, Quản cơ, thì con, cháu cùng những người chịu tang trong 1 năm cũng không được dự thi dù thứ phạm này bị xét xử hay chưa. Còn chắt, cùng những người chịu tang từ đại công trở xuống thì cho dự thi. Nếu kẻ thứ phạm đã ra đầu thú, hoặc lập công chuộc tội dù được giảm miễn thì con, cháu đều không được đi thi, nhưng người thân chịu tang trong một năm đều được dự thi.

Lệ này vẫn ảnh hưởng đến những người thân với những thứ phạm hiện đang còn nhỏ.

Nếu là kẻ tòng phạm cam tâm theo giặc nhưng không có chức tước hoặc chức nhỏ như Suất đội, Cai đội, thì con, cháu không được đi thi, còn những người thân chịu tang từ một năm trở xuống đều được dự thi. Nếu kẻ tòng phạm đã đầu thú, lập công chuộc tội mà được giảm án thì cháu cho được đi thi, hoặc nếu lúc bị án cháu còn đang nhỏ thì lúc trưởng thành không bị ảnh hưởng, vẫn cho đi thi.

Nếu là kẻ tòng phạm nhưng bị giặc bức hiếp phải nghe, chẳng có chức tước gì thì chỉ có con là bị cấm thi, còn cháu trở xuống đều được dự thi. Nếu kẻ tòng phạm này đầu thú lập công chuộc tội được giảm miễn thì con được dự thi. Nếu lúc bị án con đang còn nhỏ, lúc trưởng thành sẽ không bị ảnh hưởng.

Nếu là người theo Tả đạo (đạo Thiên Chúa) cấm dự thí. Nhưng nếu thực sự ra khỏi đạo thì cho dự thi.

- Về học vấn và năng lực làm văn thể bốn trường: phải qua khảo hạch và đỗ được khảo hạch.

Điều kiện về học lực: Muốn trở thành thí sinh dự kỳ thi Hương, các sĩ tử phải trải qua một kỳ hạch tại địa phương gọi là Khảo khóa, mục đích kỳ hạch này là ngăn chặn bớt những sĩ tử chưa đủ trình độ. Gặp năm bình thường không có kỳ thi Hương thì thong thả tổ chức, còn những năm có kỳ thi Hương thì phải tổ chức trước đó ba tháng để có thời gian lập danh sách trình lên.

Những sĩ tử vượt qua được kỳ Khảo khóa sẽ được Lý trưởng lập danh sách chuyển lên quan trấn. Trong danh sách phải ghi chú rõ học ở đâu hoặc Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo là nguồi nào; học ở nhà tư, học ở quan của địa phương khác… hoặc những người đã đỗ Tú tài kỳ thi trước. Nếu đỗ Tú tài mà không dự thí vì có sự cố phải có quan lo việc học địa phương chứng thực.

Danh sách nộp lên gồm ba bản, một bản quan trấn chuyển vào Kinh nộp ở bộ Lễ để bộ Lễ lập danh sách trình lên vua. Hai bản còn lại, một bản lưu chiểu tại trấn; một bản giao quan coi việc học địa phương để so với số quyển thi phải nộp, xong rồi danh sách đó lại chuyển đến trường thi.

- Tuổi dự thi Hương là 18 tuổi.

2.1.3.2. Thi Hội

Những thí sinh muốn dự kỳ thi Hội phải thuộc một trong những diện sau:

- Những người đã thi đỗ Cử nhân dù vào nhà Giám học được liệt vào loại giám sinh, hay được cử làm hành tẩu ở sáu Bộ, ở các trấn, tỉnh để học việc hay xin ở nhà tự học, học tư… đều được dự thi.

- Những giám sinh xuất thân là ấm sinh, tôn sinh đã qua kiểm tra xác nhận trình độ đủ năng lực dự thi Hội, lập danh sách báo cáo lên Bộ Lễ và triều đình xin được dự thi.

- Những giám sinh vốn là cống sinh của các phủ huyện chưa qua hoặc chưa đỗ thi Hương được cử về học ở Quốc tử Giám, nay đã qua kiểm tra và Quốc tử Giám xác nhận đủ trình độ thi, lập danh sách báo cáo lên xin thi.

- Những thí sinh đã đỗ Cử nhân trong những kỳ thi Hương trước đó.

Những thí sinh ở quê thì do quan địa phương lập danh sách trình lên bộ Lễ, còn đang có chức vụ thì đường quan tại nơi làm việc lập danh sách trình lên.

Vào những khoa thi đầu tiên còn chuẩn cho những người đỗ Hương cống đời Lê dự thi.

- Những Cống sinh, Ấm sinh, Tôn Sinh tại Quốc Tử Giám qua kỳ khảo hạch dự vào hạng Ưu, Bình, chuẩn cho thi, nhưng phải lập danh sách trình lên vua xét.

- Những Cống sinh do các trấn đề cử, giao cho các quan ở Quốc Tử Giám mở kỳ phúc hạch, nếu tinh thông, văn tứ trường, cấp cho lương ăn để học tập, đợi đến gần kỳ thi sẽ sát hạch lại, nếu dự hạng cao sẽ lập danh sách cho dự thi.

- Những Huấn đạo, Giáo thụ giảng dạy xuất thân Tú tài; những Tôn sinh, Cống sinh, Ấm sinh đỗ Tú tài, giao những giáo quan ở Quốc Tử Giám sát hạch, nếu xếp hạng Ưu, Bình cho vào dự thi.

Các hạng trên sẽ không được dự thi nếu:

- Chịu tang cha mẹ, chịu tang ông bà nội (nếu là người thừa trọng).

- Đỗ Cử nhân giữ chức vụ nhưng phạm lỗi bị cách chức.

Riêng những người đỗ Cử nhân năm trước, nếu không dự thi phải làm giấy cáo quan nêu rõ lý do tại sao không dự thi.

Đối với quan lại, nói chung nhà Nguyễn không cho các quan đi thi sợ rằng như thế họ chú ý học hành để đi thi mà không chăm lo công việc đang làm.

2.1.3.3. Thi Đình

Đối tượng dự thi Đình nhỏ bé ít ỏi hơn thi Hội và thi Hương rất nhiều, nó chỉ bao gồm những người trúng cách thi Hội và một số rất ít được phép thi thêm mà chỉ riêng triều Nguyễn đời Tự Đức mới có.

Đề thi Đình trực tiếp do vua ra hoặc một đại thần nào đó được vua chỉ định ra rồi vua duyệt. Qua những đề thi Đình mà vua ra thường hay hỏi về việc đế vương dùng người, các biện pháp để làm ích dân lợi nước… muốn thông qua các đề này đánh giá tầm chiến lược và tài chính trị của từng người sẽ là tay chân thân tín của nhà vua hay người kế nghiệp nhà vua trong thời gian sắp tới.

Những thí sinh đỗ kỳ thi Hội (gọi là Trúng cách hoặc Chánh trúng cách) sẽ được vào thi Đình. Sau khi yết bảng thi Hội, các quan Chủ khảo và Tri cống cử căn cứ theo điểm của thí sinh ở các trường thi, lập bảng Giáp và bảng Ất mỗi thứ hai bảng. Bảng Giáp ghi danh những người đỗ chính thức, bảng Ất ghi danh những người lấy đỗ Phó bảng. Những người có tên trong bảng Giáp sẽ được dự thi Đình.

Trong đời Nguyễn quan chức làm thi Điện đơn giản và hợp lý hơn đời Lê. Nếu chính vua là người trực tiếp tổ chức chỉ đạo tổ chức kỳ thi thì thi Đình không cần có Chánh Phó chủ khảo nữa và số quyển thi ít đi thì cũng không cần Chánh Phó Đề điệu nữa chỉ cần chức Giám thí để giám sát việc thi cử, chức độc quyền để giúp vua đọc và sắp xếp quyển thi, chức thu quyển và duyệt quyển.

Một phần của tài liệu Khoa cử việt nam dưới triều vua minh mạng (1820 1840) (Trang 54 - 59)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(111 trang)