Các trường hợp được BTTH

Một phần của tài liệu Bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Trang 59 - 65)

CHƯƠNG 2: CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BTTH TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

2.3. Thể thức về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng tố tụng hình sự

2.3.3. Phạm vi trách nhiệm bồi thường

2.3.3.1. Các trường hợp được BTTH

Trước đây, việc bồi thường cho bị thiệt hại trong tố tụng hình sự được thực hiện theo Nghị quyết số 388/2003/ NQ – UBTVQH ngày 17/3/2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. LTNBTCNN được ban hành tiếp tục ghi nhận những nội dung cơ bản của Nghị quyết 388 và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn đang được thực tiễn chấp

34 Báo Tiền phong online, Khốn cùng vì án oan sai, Hoàng Thiên Nga, http://www.tienphong.vn/phap- luat/518775/khon-cung-vi-an-oan-sai.html, [truy cập ngày 04/03/2011].

GVHD: ThS. Tăng Thanh Phương 52 SVTH: Phan Thị Như nhận, phát huy tác dụng. Theo đó, Điều 26 liệt kê các trường hợp mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường bao gồm:

Thứ nhất, người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

Thứ hai, người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;

Thứ ba, người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;

Thứ tư, người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;

Thứ năm, người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành;

Thứ sáu, người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;

Thứ bảy, tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này thì được bồi thường.

Các trường hợp nếu trên được xây dựng dựa trên sự kế thừa qui định tại khoản 1 Điều 1 NQ 388/2003. Theo đó, thì người được bồi thường thiệt hại được hiểu là người bị oan. Tại Điều 2 BLTTHS 2003 qui định: “ không làm oan người vô tội”, từ đó có

GVHD: ThS. Tăng Thanh Phương 53 SVTH: Phan Thị Như thể hiểu: người oan phải là người vô tội. Theo Điều 9 BLTTHS 2003 thì: “không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội một người nào đó, ngoài ra không cơ quan nào có quyền này. Do đó, có thể hiểu người bị oan là người vô tội nhưng bị Tòa án kết tội oan, còn người bị oan theo qui định tại Điều 29 BLTTHS chỉ qui định chung là: “người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan…” ở đây, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự là người thuộc Cơ qua điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và ứng với người bị oan là người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo,người bị kết án. Như vậy, người bị oan và người bị thiệt hại không phải là hai khái niệm hoàn toàn là một.

Người bị oan đồng thời là người bị thiệt hại, còn người bị thiệt hại không phải lúc nào cũng bị oan. Việc xác minh trường hợp được bồi thường Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự cần hiểu chính xác là bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng gây ra.

Như vậy, trong hoạt động tố tụng hình sự, Nhà nước chỉ có trách nhiệm bồi thường khi người bị thiệt hại bị oan, tức là không thực hiện hành vi phạm tội mà bị điều tra, truy tố, xét xử. Không đặt vấn đề lỗi của người thi hành công vụ, tức là Nhà nước có trách nhiệm bồi thường nếu người bị thiệt hại được coi là bị oan, bất luận công chức có lỗi hay không có lỗi trong việc gây ra tình trạng oan này.

2.3.3.2. Các trường hợp không được BTTH (Điều 27)

Thực tế cuộc sống chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp, chính người bị thiệt hại cũng có lỗi, là đồng phạm vi phạm pháp luật với người thi hành công vụ, cùng gây ra thiệt hại cho chính mình hoặc trong các trường hợp bất khả kháng, tình thế cấp thiết thì nhà nước không bồi thường thiệt hại. Luật này khẳng định, nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy ra trong các trường hợp do lỗi của người bị thiệt hại, người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc; người được miễn trách nhiệm hình sự hoặc người khởi tố rút yêu cầu khởi tố trong trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại….

 Thứ nhất, người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào gian đoạn tố tụng hình sự tương ứng áp dụng và được thể hiện bằng nội dung không buộc một người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm, nếu thấy không cần thiết

GVHD: ThS. Tăng Thanh Phương 54 SVTH: Phan Thị Như phải truy cứu trách nhiệm hình sự người đó và phải đáp ứng được những điều kiện nhất định.

Điều 25 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đã xác định rõ các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự :

a) Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Ví dụ, theo BLHS năm 1985, người nào biết rõ một trong những tội phạm nhất định được qui định trong BLHS mà không tố giác thì hành vi đó được coi là tội phạm bất kể người thực hiện tội phạm là ai, nhưng nay theo BLHS năm 1999 qui định người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì không coi người không tố giác này là tội phạm nữa trừ khi họ không tố giác về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc một số tội phạm nhất định là tội đặc biệt nghiêm trọng theo qui định tại khoản 1 Điều 314 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

b) Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

c) Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá.Việc miễn trách nhiệm hình sự có thể do cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án áp dụng (tùy theo từng giai đoạn của tố tụng).

 Thứ hai, cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm.

Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã chỉ rõ những người bị thiệt hại mà cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm thì không được bồi thường thiệt hại, bởi vì việc họ bị thiệt hại cũng do lỗi chủ quan của họ, để thực hiện được mục đích đó họ đã cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật cho các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm lừa dối đánh lạc hướng các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Việc không bồi thường cho những người này cũng nhằm đảm bảo không thể lợi dụng việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan để gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Tuy nhiên, theo qui định tại Điều 10 BLTTHS năm 2003 thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác dịnh sự thật của vụ án một cách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định là có tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị

GVHD: ThS. Tăng Thanh Phương 55 SVTH: Phan Thị Như can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là minh vô tội. Vì vậy, dù đương sự cố ý giả mạo chứng cứ và khai không đúng sự thật để nhận mình phạm tội thì nghĩa vụ chứng minh vẫn thuộc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc bắt, giam, giữ, điều tra, truy tố và xét xử trái pháp luật gây thiệt hại cho người dân thì từng trường hợp cụ thể mà Nhà nước phải bồi thường toàn bộ hay một phận cho người bị oan mới đúng pháp luật. Mặt khác, thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp vì bị truy bức dùng nhục hình mà bị can đã nhận mình phạm tội trong quá trình điều tra để đến khi xét xử trước Tòa án mới có mới có điều kiện thuận lợi cho việc khai báo đúng sự thật là mình không phạm tội. Nhưng điểm này chưa thấy qui định trong Luật.

 Thứ ba, người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án hoặc Toà án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù hoặc đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 26 của Luật TNBTCNN.

 Thư tư, người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng vụ án đã được đình chỉ do người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của họ chưa cấu thành tội phạm.

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là việc khởi tố vụ án mà khi người bị hại yêu cầu thì cơ quan tiến hành tố tụng mới được tiến hành khởi tố.

Người bị hại chỉ được khởi tố theo quy định tại khoản 1 của các Điều luật được quy định tại Điều 105 BLTTHS năm 200335. Người bị hại chỉ được yêu cầu khởi tố trong trường hợp hành vi phạm tội xảy ra ở mức nguy hiểm thấp nhất cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp những vụ án vượt quá yêu cầu khởi tố của người bị hại thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ khởi tố mà không cần có yêu cầu của người bị hại.

Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại là một chế định không mới, được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước. Ở Việt Nam chế định này lần đầu tiên được quy định trong BLTTHS năm 1988. Đây là chế định thể hiện tính dân chủ, sự tôn

35 Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104 (tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác), 105 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh), 106 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng), 108 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), 109 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính), 111 (Tội hiếp dâm), 113 (Tội cưỡng dâm), 121 (Tội làm nhục người khác), 122 (Tội vu khống), 131 (tội xâm phạm quyền tác giả) và Điều 171 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp) của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

GVHD: ThS. Tăng Thanh Phương 56 SVTH: Phan Thị Như trọng và cảm thông trước sự thiệt hại, mất mát, đau đớn của người bị hại. Mặc dù nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam là nguyên tắc công tố, tức là hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, Nhà nước đã cam kết sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân bằng một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, đó là Hiến pháp, bằng cả hệ thống pháp luật và cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi hành vi phạm tội xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, khi xử lý hành vi phạm tội, Nhà nước còn phải quan tâm đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại. Thực tế cho thấy mặc dù bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng người bị hại lại không muốn đưa ra xử lý vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, tương lai của họ, cũng có trường hợp giữa người bị hại và người gây thiệt hại có những mối quan hệ đặc biệt. Điều 51 và Điều 105 BLTTHS năm 2003 đã ghi nhận yêu cầu của người bị hại. Quá trình áp dụng cho thấy chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đã phát huy hiệu quả, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại được bảo vệ tốt hơn. Do đó, nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì người bị khởi tố, truy tố cũng sẽ không được bồi thường là hoàn toàn hợp lý.

Tuy nhiên, trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của họ chưa cấu thành tội phạm: có thể hiểu nếu hành vi đã thỏa mãn cấu thành tội phạm và tội phạm thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì tuy vụ án đã được đình chỉ do người yêu cầu rút yêu cầu thì người bị khởi tố truy tố không được bồi thường; nếu hành vi của họ chưa cấu thành tội phạm và đã bị khởi tố truy theo yêu cầu của người bị hại thì trường hợp này cũng không được bồi thường. Người viết cho rằng trường hợp này không hợp lý bởi lẽ người thực hiện hành vi không cấu thành tội phạm nhưng không có nghĩa là không được bồi thường thiệt hại. Như chúng ta đã biết, người bị oan là người không thực hiện bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào, trong khi đó mà người có hành vi chưa cấu thành tội phạm nhưng có thể đã thỏa mãn vi phạm pháp luật khác thì cũng không được bồi thường. Do đó, qui định này cần được sửa lại như sau: “người bị khởi tố, truy tố, xét xử theo yêu cầu của người bị hại nhưng nay vụ dược đình chỉ do người bị hại tự nguyện rút đơn yêu cầu thì người đó không được bồi thường, trừ trường hợp có căn cứ chứng tỏ người đó không thực hiện bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào”.

 Thứ năm, người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy tố, xét xử nhưng tại thời điểm ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Một phần của tài liệu Bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Trang 59 - 65)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(98 trang)