Một số kết quả nghiên cứu về giống đậu tương ở Việt Nam

Một phần của tài liệu nghiên cứu xác định giống và ảnh hưởng của một số loại phân hữu cơ vi sinh đến sinh trưởng, phát triển, năng suất đậu tương tại gia lâm hà nội (Trang 29 - 38)

1.2. Một số kết quả nghiên cứu về cây đậu tương trên thề giới và Việt Nam

1.2.3. Một số kết quả nghiên cứu về giống đậu tương ở Việt Nam

Ở Việt Nam, quá trình nghiên cứu và phát triển cây đậu ăn hạt nói chung và cây đậu tương nói riêng đã được bắt đầu từ sau cách mạng tháng 8/1945. Nhưng những nghiên cứu mang tính chất hệ thống mới chỉ được bắt đầu từ năm 1952 khi Viện Trồng trọt được thành lập tại chiến khu Việt Bắc (Trần Đình Long, 2002).

Chọn tạo giống bằng phương pháp nhập nội là con đường cải tiến giống nhanh nhất và rẻ tiền nhất. Ở Việt Nam, công tác nhập nội giống đậu tương đã đạt được những thành tựu nhất định. Theo Trần Đình Long (2002), giai đoạn 1986 - 1990 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp đã thu thập, nhập nội và đánh giá 4.188 lượt mẫu giống đậu tương trong đó co 200 mẫu giống địa phương, 1 loài đậu tương hoang dại có đặc tính kháng bệnh và chống chịu môi trường khắc nhiệt.

Trong giai đoạn 2001 - 2005 các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam đã nhập nội 540 mẫu giống đậu tương từ các nước Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Úc bổ sung vào tập đoàn giống .

Tác giả Nguyễn Thị Văn & cs (2003) khi nghiên cứu tập đoàn đậu tương nhập nội từ Úc đã kết luận: trong 25 mẫu giống nhập nội, giống 96031411 thuộc loại hình sinh trưởng vô hạn, có thời gian sinh trưởng dài 125 - 135 ngày, phân cành nhiều, cao cây, năng suất khá cao phù hợp với khí hậu vùng trung du, miền núi phía Bắc. Giống 94252-1, giống 20.94252-911 có khả năng chịu rét, đây là nguồn gen quý để lai tạo ra các giống đậu tương chịu rét thích hợp trồng vụ xuân, vụ đông.

Tổng hợp từ nguồn tài liệu Nguyễn Thị Út và các cs (2003),qua kết quả nghiên cứu và đánh giá tập đoàn 258 mẫu giống đậu tương (trong tập đoàn của Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia và Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau màu

Châu Á (AVRDC) đã chọn lọc được 4 giống có triển vọng là K9935, PI546195 - 1; K865; GC00002- 100 (TN-01). Trong đó giống TN-01 có tiềm năng năng suất cao nhất trong vụ đông, có khả năng kháng sâu bệnh và chống đổ khá, thời gian sinh trưởng trung bình. Sau khi đánh giá tập đoàn quỹ gen gồm 426 mẫu giống trong 5 năm (2001 - 2005) tác giả đã đề xuất 9 giống cực sớm có thời gian sinh trưởng 76 - 80 ngày, 7 giống hạt to có khối lượng 1000 hạt từ 262 - 505 g, 6 giống có tiềm năng năng suất cao 3.015 - 3.555 kg/ha. Đây là những nguồn gen làm vật liệu khởi đầu để lai tạo giống mới cho sản xuất.

Giống ĐT 2000 do Bộ môn Di truyền Miễn dịch thực vật - Viện KHKT Việt Nam chọn lọc từ mẫu giống GC00138 - 29 trong tập đoàn của AVRDC, có khả năng kháng bệnh gỉ sắt và phấn trắng cao, cứng cây, có khả Năng thâm canh cao, có số quả/cây khá cao 29,7 - 37,7 quả/cây, số quả 3 hạt cao (62%); đạt năng suất 19,5 - 30,5 tạ/ha cao hơn đối chứng V74 (Tạ Kim Bình, 2004).

Tác giả Vũ Đình Chính và Đinh Thái Hoàng (2010), khi đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số giống đậu tương Úc nhập nội trong vụ hè thu trên đất Gia Lâm - Hà Nội đã xác định được 3 giống Au10, Au4, Au3 có năng suất ổn định và cao nhất, năng suất trung bình lần lượt đạt 32,55 tạ/ha, 30,0 tạ/ha cao hơn so với đối chứng DT84 một cách chắc chắn ở mức ý nghĩa = 0,05.

Tác giả Phạm Văn Dân (2012) cho biết: hai giống đậu tương thích nghi, phù hợp với điều kiện gieo trồng vụ xuân trên đất ruộng bậc thang ở vùng cao Yên Bái là ĐVN6 và ĐT26. Các giống này có thời gian sinh trưởng ngắn

Đến trung bình 88- 96 ngày (ĐVN6) và 93 - 102 ngày (ĐT26). Cho năng suất cao và ổn định từ 16,8- 23,4 tạ/ha (ĐVN6) và từ 18,5 - 24,5 tạ/ha (ĐT26).

Từ kết quả đánh giá 10 giống đậu tương trong 2 vụ xuân và vụ đông năm 2004 và 2005 tại Thái Nguyên, tác giả Lưu Thị Xuyến cho biết: 2 giống ĐT2000 và 99084 - A28 có năng suất lý thuyết và năng suất thực thu cao hơn giống đôi chứng chắc chắn với độ tin cậy 95% trong tất cả các vụ khảo nghiệm. Năng suất lý thuyết dao động từ 27,2- 27,8 tạ/ha vụ xuân và 22,1 - 24,2 tạ/ha trong vụ đông.

Năng suất thực thu dao động từ 21,6 -22,4 tạ/ha vụ xuân và 17,1 - 17,8 tạ/ha vụ đông.

Lai hữu tính là phương pháp cơ bản trong chọn tao giống, phương pháp này có thể phối hợp các tính trạng có lợi, những ưu điểm tốt nhất của mẹ để tạo ra con lai với mục đích khác nhau. Tuy đậu tương D140 từ tổ hợp lai DL02 x DH4. Năm 1995, D140 được đưa vào thí nghiệm so sanh giống chính quy. Kết quả so sánh giống cho thấy D140 có khả năng thích ứng rộng, có thể gieo trồng ở cả 3 vụ trong năm với thời gian sinh trưởng 90 - 100 ngày, khối lượng 1000 hạt lớn, màu sắc đẹp và cho năng suất cao đạt 15 - 27 tạ/ha.

Giống đậu tương Đ8 được chọn từ tổ hợp lai AK03 x M103 bằng phương pháp lai hữu tính từ vụ xuân 2004, được công nhận giống cho sản xuất thử năm 2010. Giống có thời gian sinh trưởng ngắn (75 - 85 ngày), có khả năng chống chịu khá với bệnh gỉ sắt, chịu rét và chống đổ tốt; chiều cao cây đạt 45 - 50 cm; số quả chắc/cây đạt 25- 35 quả; hạt màu vàng sáng, khối lượng 1000 hạt đạt 175 - 185g;

năng suất cao (21 - 23 tạ/ha), thích hợp gieo trồng 3 vụ (vụ xuân, vụ hè và vụ đông) cho các tỉnh phía Bắc.

ĐVN6 là giống đậu tương được chọn tạo từ tổ hợp lai hữu tính giữa giống AK-03 và DT96. ĐV-6 có thời gian sinh trưởng trung bình từ 84 - 97 ngày, có thể trồng được 3 vụ trong năm, ưu thế đặc biệt trong vụ đông. Giống sinh trưởng mạnh, thấp cây, chống đổ tốt, khả năng thích ứng rộng hàm lượng protein trong hạt cao và ổn định trong sản xuất, trên diện rộng đạt tới 27,70 tạ/ha, ở diện tích hẹp đạt 35 tạ/ha (Nguyễn Thị Thanh & cs,2006).

Từ kết quả chọn tạo giống đậu tương cho vụ xuân và vụ đông ở các tỉnh phía Bắc, tác giả Vũ Đình Chính (2006) cho biết: giống đậu tương D912 có năng suất cao, đạt 14,6 - 29,0 tạ/ha. Năng suất D912 cao hơn hẳn V74, DT84, ĐT93 ở vụ xuân và vụ đông, còn trong vụ hè tương đương với các giống DT 84, M103.

Giống đậu tương ĐT22 được trung tâm nghiên cứu và phát triển đậu đỗ, Viện cây lương thực và Cây thực phẩm chọn tạo từ dòng đột biến hạt lai của tổ

hợp DT95 x ĐT12. Giống được công nhận chính thức năm 2006. ĐT22 có thời gian sinh trưởng trung bình 80 - 95 ngày, khối lượng 1000 hạt từ 145 - 180 g có khoản 33% số quả 3 hạt, năng suất trung bình 17 - 25 tạ/ha. Giống có thể trồng được 3 vụ trong năm, thích hợp nhất trong vụ xuân và vụ hè; khả năng chống chịu sâu bệnh và thời tiết bất thuận khá (Trần Đình Long, 2007).

Với mục tiêu chọn tạo giống đậu tương ngắn ngày bố trí trồng xen với ngô, Bộ môn Hệ thống Nông Nghiệp - Viện nghiên cứu Ngô đã tạo ra giống đậu tương ngắn ngày ĐVN -9. ĐVN -9 được chọn lọc theo phương pháp phả hệ từ tổ hợp lai ĐT - 99 x VN 20 - 5. Giống có thời gian sinh trưởng ngắn 79 - 90 ngày, sinh trưởng khỏe, có khả năng thích ứng rộng, khả năng chống chịu sâu bệnh khá, phân cành mạnh, sai quả (22,9 - 49,5 quả/cây) và năng suất khá ở cả 3 vụ xuân, hè, đông (Dương Văn Dũng & cs, 2007).

Các tác giả Nguyễn Văn Lâm và cs (2009)đã chọn tạo thành công giống Đ2101 từ tổ hợp lai Đ95 x Đ9037, có thời gian sinh trưởng từ 90 - 100 ngày, có khả năng sinh trưởng phát triển tốt, cứng cây chống đổ, chống chịu sâu bệnh tốt; số quả/cây nhiều từ 28 - 42 quả và khối lượng 1000 hạt lớn (170 - 185g), hạt màu vàng đẹp chất lượng khá (protein 41,0% và lipit 19,9%); có tiềm năng đạt năng suất cao (20 - 26 tạ/ha); thích hợp với gieo trồng cho vụ xuân và vụ đông.

Hiện nay, ứng dụng đột biến thực nghiệm là một phương pháp chọn tạo giống đã mang lại nhiều thành công theo hướng tăng năng suất và chất lượng đặc biệt là tăng hàm lượng và chất lượng protein trong hạt đậu tương.

Các giống M103, T103 được tạo ra từ đột biến hàm lượng protein tăng so với giống khởi đầu từ 3,2 - 4,2%. Trong đó hàm lượng acid amin tăng so với giống khởi đầu từ 1,37 - 5,61%. Ở M103, hàm lượng lizin, prolin, asparagine tăng 3,58%; 4,51%; 5,61% so với giống khởi đầu (Trần Đình Long, 1977).

Giống đậu tương DT84 được tạo ra bằng cách xử lý đột biến tia gama - Co60 với liều lượng 118 kr năm 1985 trên dòng lai 33 -3 (ĐT80 xĐH4) có tiềm năng năng suất cao, chống chịu sâu bệnh khá, khả năng thích ứng rộng, thời gian sinh

trưởng ngắn 80 - 90 ngày, chất lượng hạt tốt, không bị nứt vỏ, có thể gieo trồng cả 3 vụ trong năm, đặc biệt là vụ hè (Mai Quang Vinh, Ngô Phương Thịnh, 1996 ).

Tác giả Hoàng Thị Thu Yến & cs(2005) bằng phương pháp đột biến thực nghiệm đã tạo ra 3 dòng đậu tương ML 10, ML 48, ML61. Các giống này có khả năng chịu nóng, được đánh gía là thích hợp với những vùng khí hậu nóng như Tây nguyên, Băc Trung Bộ.

Trong chương trình chọn tạo giống đậu tương đột biến chịu hạn Viện Di truyền Nông nghiệp đã chọn tạo thành công giống DT2008 bằng phương pháp lai hữu tinh kết hợp đột biến phóng xạ. Đây là giống có nhiều ưu điểm vượt trội: năng suất cao 18, 35 tạ/ha, có khả năng chống chịu tổng hợp trên đồng ruộng ở mức cao nhất với các điều kiện bất thuận như hạn, úng, nóng, lạnh, đất nghèo dinh dưỡng.

Giống sinh trưởng khỏe, phân cành nhiều, hệ rễ rất phát triển, có nhiều nốt sần ,nên vừa có khả năng chịu hạn vừa có khả năng cải tạo đất tốt hơn các giống khác (Mai Quang Vinh & cs, 2008).

1.2.3.2 Mt s kết qu nghiên cu v phân bón cho cây đậu tương Vit Nam.

Ở Việt Nam, cây đậu tương được trồng trọt và nghiên cứu từ lâu. Song song với các nghiên cứu về giống thì phân bón cho cây đậu tương cũng là một vấn đề rất được quan tâm.

Tác giảTrần Thị Trường & cs (2006).Lượng phân bón cho đậu tương trong thực tế sản xuất phải tùy thuộc vào thời vụ, chân đất, cây trồng vụ trước và giống cụ thể mà bón cho thích hợp.Do đó không thể áp dụng một công thức bón chung cho đậu tương trong mọi điều kiện trồng trọt (vùng sinh thái, thời vụ, đất đai…)

Phân đạm có vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng, phát triển của đậu tương. Cây đậu tương sử dụng đạm từ các nguồn: phân bón, đất và nguồn đạm tự do từ sự cộng sinh với vi khuẩn nốt sần, và mỗi giai đoạn sinh trưởng cần một lượng đạm khác nhau. Phân đạm được sử dụng dưới các dạng NH4NO3, HNO3, NH4OH và trên urê, trong đó urê là nguồn đạm tốt nhất, các nguồn đạm khác có hiệu lực thấp và không ổn định. Theo tác giả Ngô Thế Dân & cs (1999), bón đạm

có tầm quan trọng để thu năng suất tối đa song nếu bón NO3- dư thừa lại có hại với năng suất vì lúc đó sự cố định đạm bị ức chế hoàn toàn.

Trong đời sống cây đậu tương, dinh dưỡng lân được hút từ phân bón và hút đến tận cuối vụ. Lân có tác dụng xúc tiến và phát triển bộ rễ và hình thành nốt sần nên có vai trò đặc biệt quan trọng đối với cây đậu tương. Đậu tương hút lân trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển nhưng quan trọng nhất là ở thời kỳ đấu sinh trưởng. Thời kỳ cây hút nhiều lân nhất bắt đầu ra quả cho đến trước khi 10 ngày hạt chín hoàn toàn. Ở thời kỳ sinh trưởng cuối, lân được chuyển từ lá về quả và hạt (Nguyễn Như Hà, 2006). Tác giả Trần Văn Điền (2001) đã kết luận: khi bón lân cho đậu tương với lượng tăng dần, ở các giống đậu tương không có nốt sần thì hầu như không có phản ứng gì, còn với giống đậu tương có nốt sần thì có tác dụng tăng năng suất hạt và thân rõ rệt.

Sau dinh dưỡng đạm, kali là nguyên tố được hấp thụ đứng thứ hai về số lượng và có nhu cầu cao gấp 4 lần so với lân ở cây đậu tương. Kali có vai trò quan trọng trong việc trao đổi đạm, chuyển hóa guluxit, cân bằng nước, tổng hợp protein, tăng cường tinh chống chịu cho cây…Theo Ngô Thế Dân & cs (1999) ở đất nghèo kali, đất cát, đậu tương phản ứng rõ rệt với phân kali, nhưng đối với các vùng trồng đậu tương thuộc đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long do đặc điểm đất ở đây tương đối giầu kali nên hiệu quả bón phân kali ở vùng này thấp. Trên đất bạc màu, tùy theo liều lượng kali và nền phân bón với hiệu suất từ 5,8 – 15kg đậu tương/kg K2O. Liều lượng kali bón cho đậu tương để đạt hiệu quả kinh tế cao là 60 - 90 K2O/ha. Kali làm tăng hàm lượng protein trong hạt và tăng sản lượng protein.

Hàm lượng dầu ít thay đổi do bón kali nhưng sản lượng dầu lại tăng do năng suất tăng (Nguyễn Trọng Thi và Nguyễn Văn Bộ, 1999).

Các yếu tố dinh dưỡng đa lượng có tác dụng thúc đẩy, hỗ trợ nhau trong việc cung cấp dinh dưỡng cho cây đậu tương. Trên đất phèn, nếu không bón lân, cây trồng chỉ hút được 40 - 50 kg N/ha; nếu bón lân thì có thể hút được 120 - 130 N/ha Nguyễn Văn Bộ(2001). Tác giả Võ Minh Kha (1996) đã khẳng định: trên đất đồi chua hàm lượng Fe3+, Al3+ cao nên bón phân lân và đạm có tác dụng nâng cao

năng suất đậu tương rõ rệt. Tác giả Lê Đình Sơn (1988) cunhx cho rằng: lân và đạm có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau trong việc làm tăng số các cành cho quả, số quả/cây.

Theo Trần Danh Thìn (2001) cho biết để việc bón đạm thực sự có hiệu quả cần bón kết hợp giữa các loại phân khoáng như P, K, Ca, và các phân vi lượng khác. Điều này có tác dụng rõ rệt trong việc khắc phục hạn chế của các yếu tố dinh dưỡng đất, nâng cao năng suất đậu tương. Việc bón kết hợp cả 3 yếu tố N, P, K cho năng suất cao nhất ở cả 2 nền phân cao cao và thấp. Đối với đất chua, nghèo dinh dưỡng, bón 100 N + (100 - 150) P2O5 + 50 K2O + 800 vôi/ha sẽ cho hiệu quả kinh tế lạc và đậu tương.

Theo Vũ Đình Chính (1988), bón kết hợp N,P nên đất bạc màu nghèo dinh dưỡng với mức 90 kg P2O5/ha trên nền 40kg N/ha làm tăng số lượng nốt sần, số quả chắc/cây và năng suất hạt đậu tương. Tổ hợp phân khoáng bón cho giống đậu tương Xanh lơ Hà Bắc trong điều kiện vụ hè trên đất bạc màu (Hiệp Hòa - Bắc Giang) thích hợp nhất là 20 kg N + 90 P2O5 + 90 K2O.

Theo Trần Thị Hường và Trần Thanh Bình (2006)tỷ lệ sử dụng phân đạm, lân, kali thích hợp nhất cho đậu tương là 1:2:2. Nếu bón riêng rẽ kali cho bội thu 1,4 tạ/ha; trên nền có lân cho 2,3 tạ/ha; trên nền có kali cho 3,1 tạ/ha; trên nền có kali và lân cho năng suất 5,4 tạ/ha.

Sử dụng các loại phân hữu cơ, nói rộng hơn là phân sinh học trong đó có phân hưu cơ vi sinh hiện đang rất được quan tâm trong canh tác nông nghiệp với nhiều lợi ích thiết thực. Phân hữu cơ vi sinh là sản phẩm chứa vi sinh vật sống đã được tuyển chọn có mật độ phù hợp với tiêu chuẩn ban hành, thông qua các hoạt động sống của chúng tạo nên các chất dinh dưỡng mà cây trồng có thể sử dụng được (N,P,K,S, Fe…) hay các hoạt chất sinh học hay đối kháng vi khuẩn, vi nấm gây bệnh vùng rễ để góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nông sản. Phân vi sinh phải đảm bảo không gây ảnh hưởng xấu đến người, động vật, thực vật môi trường sinh thái và chất lượng nông sản (Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, 2005).

Phân hữu cơ vi sinh vật với thành phần chất hữu cơ được bổ sung vi sinh vật có ích có ảnh hưởng rất lớn đến độ phì nhiêu của đất và năng suất cây trồng.

Phân hữu cơ không chỉ trực tiếp cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng mà còn có tác dụng quyết định cải thiện các tính chất lý, hóa, sinh của đất, điều hòa dinh dưỡng trong cơ chế tăng tăng khả năng hấp thụ của đất bằng việc tăng chất và lượng các hợp chất hữu cơ khoáng trong đất, tạo cho đất có khả năng giữ chặt dinh dưỡng, hạn chế sự mất dinh dưỡng do rửa trôi và bốc hơi: chuyển hóa các hợp chất khó tan thành rễ tan, cung cấp thêm dinh dưỡng cho cây trồng mà rõ nhất là chuyển hóa lân khó tiêu thành rễ tiêu. Ngoài ra, phân hữu cơ còn có tác dụng khắc phục những yếu tố hạn chế trong đất như Fe, Al, Mn… bằng cách tạo phức với các ion tự do gây độc của kim loại làm giảm độ độc hại của chúng (Phạm Tiến Hoàng &

cs,1999).

Thường xuyên bổ sung chất hữu cơ cũng như các nguồn vi sinh vật cho bộ rễ phát triển. Phân hữu cơ vi sinh tuy có tác dụng đến cây trồng chậm hơn phân hóa học nhưng có ưu điểm lớn mà phân hóa học không có được là chứa các chủng vi sinh vật hữu ích và các chất hữu cơ có tác dụng làm tăng độ phì nhiêu của đất và cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng một cách bền vững và lâu dài. Theo Nguyễn Xuân Thành & cs (2003), phân sinh học (bao gồm phân hữu cơ vi sinh) có tác dụng rất lớn trong tạo nền thâm canh để tăng năng suất cây trồng, nhưng chỉ có phân sinh học thôi thì không thể cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho cây trồng để có năng suất cao, khó đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm cho nhân loại. Do đó cần sử dụng tổng hợp các loại phâm sinh học và hóa học một cách cân đối

Ở Việt Nam thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu bón phân hữu cơ và phân hữu cơ vi sinh nói riêng cho cây đậu tương được thực hiện. Tác giả Lưu Thị Xuyến (2012), nghiên cứu trên giống đậu tương 99084 - A28 trọng vụ xuân ở Thái Nguyên cho thấy: lượng phân bón 5 tấn phân chuồng + 40 kg N + 80 kg P2O5 + 40kg K2O + 300kg vôi bột/ha là thích hợp nhất vừa cho năng suất cao (30,5 tạ/ha) vừng cho lãi thuần cao nhất (27,8 triệu đồng/ha).

Theo Nguyễn Xuân Thành &cs(2003), kết quả khảo nghiệm phân vi khuẩn nốt sần tại Thuận Thành - Bắc Ninh cho thấy, bón phân hữu cơ vi sinh cho đậu

Một phần của tài liệu nghiên cứu xác định giống và ảnh hưởng của một số loại phân hữu cơ vi sinh đến sinh trưởng, phát triển, năng suất đậu tương tại gia lâm hà nội (Trang 29 - 38)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(103 trang)