3.1.1. Thời gian mọc mầm và tỷ lệ mọc mầm của một số giống đậu tương
Thời gian mọc mầm của của đậu tương được tính từ khi gieo đến khi hạt hút nước trương lên và mầm phôi được bắt đầu sinh trưởng sau đó mọc lên khỏi mặt đất và xòe lá tử diệp. Sự nẩy mầm của hạt phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng hạt giống, điều kiện ngoại cảnh đặc biệt là ẩm độ và nhiệt độ. Trong cùng điều kiện sinh thái, mùa vụ thì giống là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến sự nẩy mầm của hạt.
Bảng 3.1. Thời gian mọc mầm và tỷ lệ mọc mầm của các giống đậu tương
Giống Thời gian từ gieo – mọc (ngày)
Tỷ lệ mọc mầm (%) ĐT22 (đối chứng)
D912 Đ9804 Đ8 ĐVN5 ĐVN6 ĐT26
4 4 5 6 4 4 5
87,00 92,50 88,00 90,10 93,00 95,35 94,00
Các giống đậu tương nghiên cứu thời gian mọc mầm giao động từ 4 - 6 ngày. Trong đó, giống D912, ĐVN5 và giống ĐVN6có thời gian mọc tương đương giống đối chứng ĐT22 (4ngày); hai giống có thời gian mọc mầm trung bình giống nhau Đ9804 và ĐT26 (5 ngày). Thời gian từ khi gieo đến khi mọc mầm dài nhất là giống Đ8 với thời gian (6 ngày)
Các giống đậu tương nghiên cứu đều có tỷ lệ mọc mầm cao. Riêng giống đối chứng ĐT22 có tỷ lệ mọc mầm 87%, giống có tỷ lệ mọc mầm cao nhất là giống ĐVN6 với tỷ lệ mọc mầm là 95,35%.
3.1.2. Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các giống đậu tương
Thời gian sinh trưởng của cây đậu tương được tính từ lúc gieo hạt đến khi chín hoàn toàn, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và phụ thuộc vào các đặc điểm của giống và các điều kiện ngoại cảnh. Khi các yếu tố ngoại cảnh đồng nhất thì thời gian sinh trưởng do bản chất di truyền của giống quyết định.
Thời gian sinh trưởng của các giống đậu tương trong từng mùa vụ là căn cứ để phân loại giống, từ đó ta có thể bố trí thời vụ trồng cũng như áp dụng các biện pháp kỹ thuật hợp lý nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao nhất. Theo dõi thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng phát triển của một số giống đậu tương trong điều kiện vụ hè thu năm 2014 cho thấy các giống khác nhau có thời gian sinh trưởng khác nhau, các số liệu chi tiết được thể hiện trong bảng 3.2
Bảng 3.2. Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các giống đậu tương (ngày)
Giống
Thời gian theo dõi ngày sau gieo
Từ gieo - ra hoa Từ ra hoa - chín Thời gian ST ĐT 22 (ĐC )
D912 Đ9804 Đ8 ĐVN5 ĐVN6 ĐT26
35 53 87 36 54 90 38 53 91 31 5081
36 52 88
34 52 86 36 51 93
Thời gian từ gieo hạt đến ra hoa: là giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng quan trọng của cây đậu tương, có ý nghĩa quyết định đến số cây trên đơn vị diện tích, số lượng và kích thước lá, số cành, số đốt, tổng số hoa trên cây, khả năng tích lũy chất khô của cây và từ đó ảnh hưởng đến năng suất. Độ dài của khoảng thời gian từ khi gieo hạt đến khi đậu tương ra hoa phụ thuộc chặt chẽvào bản chất di truyền của giống và điều kiện ngoại cảnh.
Trong điều kiện vụ hè thu năm 2014, thời gian từ khi gieo hạt đến khi ra hoa của các giống đậu tương nghiên cứu có sự chênh lệch về thời gian, dao động từ 31- 38 ngày. Trong đó giống có thời gian giống có thời gian từ gieo hạt đến ra hoa ngắn nhất là Đ8 (31 ngày); giống đối chứng ĐT22 ở mức trung bình là 35 ngày, riêng giống Đ9804 có thời gian này dài nhất là 38 ngày, ở các giống còn lại dao động từ 34 - 36 ngày.
Thời gian từ ra hoa đến khi chín: là thời kỳ sinh trưởng sinh thực của cây đậu tương. Song đậu tương khi ra hoa vẫn tiếp tục phát triển các bộ phận thân, cành lá và rễ, vì vậy cây có nhu cầu rất lớn về nước và dinh dưỡng.
Các số liệu trong bảng 3.2 cho thấy sự khác biệt trong khoảng thời gian từ khi cây ra hoa đến khi chín giữa các giống dao động từ 50 - 54 ngày. Thời gian từ ra hoa đến chín ngắn nhất là giống Đ8 (50 ngày) và dài nhất ở giống Đ912 (54 ngày); giống đối chứng ĐT22 là 53 ngày; ở các giống còn lại từ 51 - 52 ngày.
Tổng thời gian sinh trưởng: là khoảng thời gian từ khi gieo hạt đến khi đậu tương chín sinh lý hoàn toàn. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, các giống đậu tương khác nhau có thời gian sinh trưởng khác nhau, dao động từ 81 - 93 ngày, thời gian ngắn nhất là giống Đ8 và dài nhất ở giống ĐT26. Giống đối chứng ĐT22 có tổng thời gian sinh trưởng là 87 ngày. Thời gian sinh trưởng của các giống còn lại từ 86 - 91 ngày
3.1.3 Động thái thái tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống đậu tương
Sự sinh trưởng phát triển và khả năng chống đổ của các giống đậu tương được phản ánh một phần chiều cao thân chính của cây. Chỉ tiêu này chủ yếu do đặc điểm di truyền của giống quyết định song cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện ngoại cảnh, nhất là chế độ ánh sang và ding dưỡng. Sự tăng trưởng chiều cao thân chính ảnh hưởng đến sự ra lá, phân đốt, phân cành; từ đó ảnh hưởng đến năng suất hạt. Kết quả theo dõi sự tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống đậu tương thí nghiệm được tổng hợp qua bảng 3.3.
Bảng 3.3 Động thái tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống đậu tương (cm)
Giống
Ngày theo dõi (ngày/tháng)
05/09 12/09 19/09 26/09 03/10 10/10 17/10 ĐT 22 (đối chứng)
D912 Đ9804 Đ8 ĐVN5 ĐVN6 ĐT 26
10,25 10,08 11,50 10,70 9,79 9,50 11,90
16,79 16,53 17,30 18,35 15,40 14,57 19,65
25,78 28,20 28,95 29,56 24,15 23,57 30,10
36,99 39,15 43,54 42,87 34,67 33,25 45,32
44,94 59,08 60,35 56,25 38,05 40,54 65,97
49,95 62,09 63,75 60,09 45,35 45,34 68,96
51,95 63,76 65,57 62,70 48,86 47,24 71,05 Các số liệu ở bảng 3.3 cho thấy có sự khác nhau về động thái tăng trưởng chiều cao thân chính giữa các giống đậu tương nghiên cứu. Chiều cao thân chính của các giống ở lần đo cuối cùng thời kỳ quả chín biến động từ 47,24 cm (ĐVN6) và (ĐVN5) 48,86 cm cho đến giống (ĐT26) 71,05 cm. Giống đối chứng ĐT22 chiều cao thân chính là 51,95 cm. Các giống còn lại có chiều cao thân chính cao hơn so với đối chứng.
Chiều cao thân chính của giống đậu tương có xu hướng tăng dần từ sau khi xuất hiện lá kép thứ nhất đến khi chín. Song với mỗi giống và mỗi thời kỳ thì sự tăng trưởng chiều cao thân chính là không giống nhau. Ở giống Đ8, D912, ĐVN5, ĐVN6 và ĐT22 chiều cao tăng dần cho đến thời kỳ hoa rộ và hầu như không tăng đến khi chín trong khi đó chiều cao thân chính của các giống Đ9804 và giống ĐT26 thì lại ổn định dần ở thời kỳ quả mẩy.
3.1.4. Chỉ số diện tích lá của các giống đậu tương.
Lá là cơ quan quang hợp quan trọng nhất và sự phát triển của bộ lá là nền tảng tạo nên năng suất cây trồng. Khả năng quang hợp của quần thể cây trồng được đánh giá thông qua chỉ số diện tích lá. Chỉ số diện tích lá biến động qua các thời kỳ sinh trưởng phát triển và có tương quan thuận với khả năng quang hợp của cây trong một giới hạn nhất định. Kết quả theo dõi chỉ số diện tích lá của các giống đậu tương thí nghiệm được thể hiện qua bảng 3.4.
Bảng 3.4. Chỉ số diện tích lá của các giống đậu tương (m2 lá/m2 đất) Giống Thời kỳ bắt đầu
ra hoa Thời kỳ hoa rộ Thời kỳ quả mẩy ĐT 22 (ĐC)
D912 Đ9804 Đ8 ĐVN5 ĐVN6 ĐT26
2,07 2,50 2,65 2,80 2,75 2,84 3,15
3,33 4,35 4,28 3,71 4,05 4,03 4,79
4,25 4,86 4,91 4,63 5,13 5,15 5,25 LSD0,05
CV(%)
0,21 4,5
0,12 4,9
0,14 5,1
Chỉ số diện tích lá của các giống đậu tương nghiên cứu tăng dần qua các thời kỳ từ khi bắt đầu ra hoa đến khi hoa rộ, đạt cao nhất ở thời kỳ quả mẩy và có sự khác biệt về giống.
Thời kỳ bắt đầu ra hoa, chỉ số diện tích lá của các giống đậu tương còn thấp, biến động từ 2,07 đến 3,15 m2 lá/m2 đất. Đến khi thời kỳ hoa rộ, chỉ số diện tích lá các giống bắt đầu tăng nhanh, đạt từ 3,33 đến 4,79 m2 lá/m2 đất. Thời kỳ quả mẩy, các giá trị này đạt cao nhất, biến động từ 4,25 đến 5,25 m2 lá/m2 đất.
Trong đó ở cả ba thời kỳ, giống đối chứng ĐT22 có chỉ số diện tích lá thấp nhất, chỉ số diện tích lá đạt cao nhất ở giống ĐT26. Các giống còn lại có chỉ số diện tích lá cao hơn so với giống đối chứng có ý nghĩa độ tin cậy 95%.
3.1.5. Động thái tích lũy chất khô của các giống đậu tương
Khả năng tích lũy chất khô của các cây được đánh giá thông qua lượng chất khô được tích lũy trong cây. Giá trị này phụ thuộc vào diện tích lá và hiệu suất quang hợp của cây với sự chi phối rất lớn về bản chất di truyền của giống cũng như điều kiện ngoại cảnh của vụ sản xuất. Quá trình tích lũy chất khô ở thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng là tiền đề vật chất cho thời kỳ sinh trưởng sinh sinh thực, cuối cùng là tạo thành năng suất. Cũng như đối với các cây trồng khác, sự tích lũy chất khô là yếu tố quyết định đến năng suất của cây đậu tương.
Nhằm đánh giá khả năng tích lũy chất khô của các giống đậu tương nghiên cứu, chúng tôi đã theo dõi động thái tích lũy chất khô của các giống trong các thời kỳ sinh trưởng, phát triển; kết quả được thể hiện qua bảng 3.5.
Bảng 3.5. Động thái tích lũy chất khô của các giống đậu tương (g/cây) Giống hoa Thời kỳ bắt đầu ra Thời kỳ hoa rộ Thời kỳ quả mẩy ĐT22 (ĐC)
D912 Đ9804 Đ8 ĐVN5 ĐVN6 ĐT26
4,19 3,52 3,67 3,54 4,71 4, 89 6,73
9,97 8,59 10,57
9,89 9,35 9,17 11,95
20,18 18,15
22,65 21,57 19,56 19,91 27,25 LSD0,05
CV(%)
0,34 4,3
0,81 4,6
1.79 4.7
Thời kỳ bắt đầu ra hoa, lượng chất khô tích lũy của các giống đậu tương còn thấp, biến động từ 3,52 đến 6,73 g/cây. Lúc này cây vẫn sinh trưởng sinh dưỡng mạnh, sử dụng sản phẩm quang hợp để tiếp tục phát triển thân lá. Giống đối chứng ĐT22 có lượng chất khô tích lũy là 4,19 g/cây. Giống ĐT26 có lượng chất khô tích lũy cao nhất (đạt 6,73 g/cây); tiếp theo là giống ĐVN6 (4,89 g/cây) và ĐVN5 (4,71 g/cây); giống có lượng chất khô thấp nhất là D912 (3,52 g/cây).
Thời kỳ hoa rộ, cây đậu tương sinh trưởng mạnh, khả năng tích lũy chất khô của cây tăng lên và có sự khác biệt rõ rệt giữa các giống. khối lượng chất khô tích lũy của các giống biến động từ 8,59g/cây (giống D912) đến 11,95g/cây (giống ĐT 26). Giống đối chứng ĐT22 có khối lượng chất khô đạt 9,97 g/cây.
Ở thời kỳ quả mẩy, khả năng tích lũy chất khô của các giống đậu tương đạt cao nhất trong các thời kỳ theo dõi. Lúc này toàn bộ lượng vật chất được tạo ra và từ các bộ phận khác của cây được huy động để nuôi hạt. Giống ĐT26 có lượng chất khô tích lũy cao nhất (27,25 g/cây); giá trị này ở giống đối chứng ĐT22 là (20,18 g/cây).
3.1.6. Khả năng hình thành nốt sần của các giống đậu tương.
Đặc trưng quan trọng nhất của cây đậu tương nói riêng và các cây họ đậu nói chung là sự hình thành và hoạt động của nốt sần trên rễ. Khi cây đậu tương được khoảng 2 - 3 lá kép (10 - 15 ngày), vi khuẩn Rhizobium Japonnicum bắt đầu xâm nhập vào rễ tạo lên các nốt sần đầu tiên. Số lượng và khối lượng nốt sần tăng lên cùng với quá trình phát triển của cây và đạt cực đại ở thời kỳ quả mẩy. Vào thời kỳ quả mẩy. Vào thời kỳ chín, các nốt sần trở nên già cỗi và rụng đi, vi khuẩn được giải phóng vào đất.
Nghiên cứu khả năng hình thành nốt sần của các dòng, giống đậu tương có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác chọn giống mới, những dòng, giống có số lượng, khối lượng nốt sần hữu hiệu lớn sẽ góp phần tạo năng suất cao và cải tạo đất tốt. Khả năng hình thành nốt sần phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của giống và tình trạng phát triển của cây.
Qua theo dõi số lượng, khối lượng nốt sần cũng như tỷ lệ nốt sần hữu hiệu của giống đậu tương thí nghiệm ở ba thời kỳ bắt đầu ra hoa, hoa rộ, và quả mẩy cho thấy:
Bảng 3.6. Khả năng hình thành nốt sần của các giống đậu tương
Giống
Thời kỳ bắt đầu ra hoa Thời kỳ hoa rộ Thời kỳ quả mẩy Tổng số
nốt sần (nốt/cây)
Khối lượng (g/cây)
Tỷ lệ hữu hiệu
(%)
Tổng số nốt sần (nốt/cây)
Khối lượng (g/cây)
Tỷ lệ hữu hiệu
(%)
Tổng số nốt sần (nốt/cây)
Khối lượng (g/cây)
Tỷ lệ hữu hiệu
(%) ĐT22( ĐC)
D912 Đ9804 Đ8 ĐVN5 ĐVN6 ĐT26
27.00 32,75 45,23 46,17 53,45 56,28 65,24
0,32 0,50 0,47 0,48 0,54 0,57 0,63
79,57 83,50 82,56 83,67 76,95 78,20 90,43
42,70 59,58 63,02 61,53 71,47 72,10 74,76
0,61 0,72 0,75 0,71 0,65 0,67 0,79
85,30 87,15 90,22 90,34 85,13 87,54 92,15
53,25 65,50 68,54 71,12 72,37 75,14 78,05
0,73 0,78 0,79 0,83 0,76 0,82 0,87
80,21 82,30 79,21 78,56 79,64 80,63 83,13 LSD0,05
CV(%)
3,57 4,3
5.03 4.5
5.42 4.4
Số lượng và khối lượng nốt sần tăng dần từng thời kỳ cây đậu tương bắt đầu ra hoa đến thời kỳ hoa rộ và đạt cực đại vào thời kỳ quả mẩy. Các giống đậu tương khác nhau có số lượng và khối lượng nốt sần khác nhau.
Giống đối chứng ĐT22 có số lượng và khối lượng nốt sần thấp nhất trong các giống, đạt 27,00 nốt/cây, khối lượng 0,32 g/cây ở thời kỳ bắt đầu ra hoa; 42,70 nốt/cây với khối lượng 0,61 g/cây ở thời kỳ hoa rộ và thời kỳ quả mẩy đạt 53,25 nốt/cây với 0,73 g/cây.
Các giống khác đều có số lượng và khối lượng nốt sần cao hơn giống đối chứng, đạt cao nhất ở giống ĐT26 (đạt 65,24 nốt/cây với khối lượng 0,63 g/cây ở thời kỳ bắt đầu ra hoa; 74,76 nốt/cây với 0,79 g/cây vào thời kỳ ra hoa rộ và 78,05 nốt/cây với 0,87 g/cây vào thời kỳ quả mẩy). Khối lượng nốt sần trên cây không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ thuộc vào kích thước nốt sần. Vì vậy,
giống ĐVN5 mặc dù số lượng nốt sần cao nhưng kích thước lại nhỏ nên khối lượng nốt sần thấp hơn D912 ở một số thời kỳ.
3.1.7. Thời gian ra hoa và tổng số hoa của các giống đậu tương
Thời kỳ ra hoa là thời kỳ quan trọng nhất trong đời sống của cây đậu tương được tính từ khi cây bắt đầu ra hoa đến khi kết thúc nở hoa. Hoa đậu tương có đặc điểm là rất bé và chủ yếu tự thụ phấn; số lượng hoa rất nhiều song tỷ lệ rụng hoa cũng rất cao, có thể rụng 70 - 80 % số hoa nếu gặp điều kiện bất thuận. Chính vì vậy độ dài của của thời gian ra hoa rất có ý nghĩa đối với quá trình sinh trưởng sinh thực và năng suất của cây đậu tương.
Bảng 3.7. Thời gian ra hoa và tổng số hoa của các giống đậu tương
Giống Thời gian ra hoa (ngày)
Tổng số hoa trên cây (hoa)
Tỷ lệ đậu quả (%) ĐT22 ( ĐC)
D912 Đ9804 Đ8 ĐVN5 ĐVN6 ĐT26
15 14 16 15 16 17 18
62,15 59,18 69,53 88,45 95,47 95,84 96,68
67,81 70,54 65,65 50,18 41,11 42,09 50,20
Thời gian ra hoa dài hay ngắn phụ thuộc vào đặc tính của giống, thời vụ gieo trồng. Đây là một chỉ tiêu để xác định khả năng thích nghi với điều kiện bất thuận của cây. Thông thường những giống có thời gian ra hoa ngắn thì quả chín tập trung, có khả năng cho năng suất cao, song nếu gặp thời tiết bất thuận sẽ bị thất thu. Những giống có thời gian ra hoa kéo dài, ra hoa rải rác tuy quả chín không tập
trung, nhưng nếu gặp thời tiết bất thuận khi ra hoa thì chỉ những hoa ra trong thời gian đó bị ảnh hưởng, vì vậy thường cho năng suất ổn định.
Kết quả theo dõi thời gian ra hoa và số lượng hoa của các giống đậu tương thí nghiệm được thể hiện qua bảng 3.7.
Thời gian ra hoa của các giống biến động từ 14 - 18 ngày, giống D912 có thời gian ra hoa ngắn nhất và thời gian dài nhất thuộc về giống ĐT26. Giống đối chứng và giống Đ8 có thời gian ra hoa bằng nhau là 15 ngày, thời gian ra hoa của giống Đ9804 và giống ĐVN5 cùng nhau là 16 ngày. Giống ĐVN6 và giống ĐT26 lần lượt 17 - 18 ngày.
Số lượng hoa là cơ sở để hình thành quả trên cây của các giống đậu tương.
Thông thường thời gian ra hoa và tổng số hoa có mối tương quan thuận với nhau, giống có thời gian ra hoa càng dài thì cho tổng số hoa hoa nở càng nhiều và ngược lại. Kết quả thu được cho thấy các giống đậu tương nghiên cứu có tổng số hoa trên cây khác nhau, biến động từ 59,18 hoa (giống D912) đến 96,68 hoa (giống ĐT26).
Giống đối chứng ĐT22 có tổng số hoa 62,15 hoa.
3.1.8. Đường kính thân và khả năng chống đổ của các giống đậu tương.
Khả năng chống đổ của cây đậu tương phụ thuộc vào chiều cao thân chính và đường kính thân cây. Cây có đường kính thân lớn và chiều cao thân chính thích hợp sẽ có khả năng chống đổ tốt, tạo điều kiện cho sinh trưởng, phát triển thuận lợi. Đây là cơ sở để có năng suất và chất lượng hạt tốt. Đường kính thân và chiều cao cây chịu sự chi phối của giống, thời vụ trồng; các điều kiện ngoại cảnh và biện pháp kỹ thuật chăm sóc.
Bảng 3.8. Đường kính thân và khả năng chống đổ của các giống đậu tương
Giống Đường kính thân (mm)
Tỷ lệ đổ (%)
Cấp đổ (điểm 1-5) ĐT22 ( ĐC)
D912 Đ9804 Đ8 ĐVN5 ĐVN6 ĐT26
5,42 4,75 5,56 5,79 5,47 5,35 6,72
0,0 25 0,0 0,0 27 25 0,0
1 2 1 1 2 2 1
Kết quả theo dõi đường kính thân và khả năng chống đổ của các giống đậu tương thí nghiệm thể hiện qua bảng 3.8 cho thấy giống đậu tương nghiên cứu có khả năng chống đổ tốt và ít biến động (từ điểm 1-2). Các giống có khả năng chống đổ tốt nhất (điểm 1 - không đổ) gồm giống đối chứng ĐT22, D9804, Đ8 vàĐT26, ứng với đường kính thân 5,42 mm; 5,56mm; 5,79mm và 6,72mm, Các giống có điểm chống đổ là 2 gồm các giống D912, ĐVN5 và ĐVN6 với đường kính thân tương ứng là 4,75mm; 5,47mm và 5,35mm.
3.1.9. Mức độ nhiễm sâu bệnh của đậu tương
Bên cạnh nghiên cứu các chỉ tiêu về sinh trưởng, phát triển, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của cây đậu tương thì việc đánh giá mức độ nhiễm sâu bệnhvà khả năng chống chịu của cây là rất cần thiết. Đậu tương là cây trồng có khả năng tạo sinh khối lớn nhưng rất dễ bị tổn hại do các loại sâu bệnh. Mặt khác, khi cây bị hại thì khả năng phục hồi rất thấp. Chính vì vậy việc phòng trừ sâu bệnh hại trên cây đậu tương cần được tiến hành thường xuyên và liên tục.