CHƯƠNG 4 GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG EXIMBANK CHI NHÁNH HÀ NỘI
4.3. Một số kiến nghị
4.3.1 Đối với chính phủ
4.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách trong TTQT
Để không ngừng hoàn thiện hệ thông pháp lý và chính sách phát triển thương mại, nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại thương nói chung và TTQT nói riêng, xin nêu ra một số kiến nghị cụ thể sau đây:
Chính phủ thông qua Bộ Tài chính cần xem xét đến vấn đề vốn và chi phí có liên quan đến hoạt động bảo hiểm tài trợ xuất khẩu. Thực hiện chức năng hoạch định chính sách, định hướng phát triển cần xây dựng các mục tiêu trung dài hạn và quản lý hệ thống bảo hiểm tài trợ xuất khẩu.
Tăng cường hệ thống pháp lý, chính sách phát triển, quản lý kinh tế trên cơ sở khoa học, thực tiễn, phù hợp với yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và hạn chế những khiếm khuyết cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp.
Nghiêm cứu kỹ lưỡng, chuẩn bị chu đáo, tránh nóng vội nhằm tạo ra “sức sống” của các văn bản pháp quy, hạn chế những thay đổi quá nhanh của hệ thông pháp luật, chính sách phát triển, quản lý kinh doanh gây ra bất lợi cho các nhà doanh nghiệp. Không nên lạm dụng nguyên tắc “sai thì sửa” trong khi ban hành các
đổi, gây ra sự lo ngại, hoài nghi của các nhà đầu tư về những cam kết mang tính nguyên tắc của Nhà nước. Những thay đổi quá nhanh của các văn bản pháp quy và chính sách kinh tế là nguyên nhân rủi ro cho một số doanh nghiệp khi xây dựng phương án kinh doanh xuất nhập khẩu không lường hết những khó khăn, chi phí mới phát sinh.
Cải tiến công tác ban hành pháp luật, xây dựng chính sách kinh tế từ khâu soạn thảo, thảo luận cho đến ban hành chính thức. Hạn chế tối thiểu những sai sót, mập mờ, không khả thi, thiếu thống nhất của các văn bản pháp quy về kinh tế, nhất là các văn bản dưới luật như quy định, quyết định, thông tư, chỉ thị…
Tăng cường pháp chế trong quản lý kinh doanh XNK. Kỷ luật, phép nước phải được tôn trọng bằng cách tuyên truyền giáo dục mọi người và có biện pháp xử lý nghiêm hoạt động buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo kinh tế trong nước cũng như quốc tế.
Ngoài ra chính phủ cũng cần ban hành các văn bản nhằm cụ thể hóa hơn nhằm giải quyết tranh chấp khi có mâu thuẫn giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. Các văn bản đó phải làm rõ tính chất pháp lý của UCP, URR,… đối với bên Việt Nam khi tham gia vào phương thức thanh toán quốc tế, giúp các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ.
4.3.1.2. Tăng cường quản lý thị trường, giám sát hợp đồng kinh doanh:
Vận động theo quy luật kinh tế thị trường, thị trường quốc tế là nguồn phát sinh những bất trắc, mối hiểm họa, nguy cơ rủi ro cho bất kỳ doanh nghiệp nào chấp nhận kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhằm giảm bớt nguy cơ rủi ro cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính phủ cần can thiệp một cách hợp lý trong một số mặt sau đây:
a. Quản lý chặt chẽ đầu mới buôn bán quốc tế:
Mặc dù, theo quan điểm chung là khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh XNK, tuy nhiên không nên hiểu theo nghĩa thả nổi không có sự quản lý các đầu mối kinh doanh. Để tránh rủi ro: tranh mua, tranh bán gây thiệt hại và giảm uy tín cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính phủ cần phải:
Quy định tiêu chuẩn các doanh nghiệp được quyền tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Tiêu chuẩn này phản ánh năng lực thực sự, uy tín của các doanh nghiệp khi muốn tham gia thị trường quốc tế.
Tăng cường giám sát quá trình kinh doanh bằng chế độ kiểm tra, kiểm soát, giám đốc bằng tiền, chế độ kiểm toán, báo cáo tài chính, phương án kinh doanh…
Đối với một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực, có những ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân cần có sự quản lý chặt chữ đầu mối kinh doanh.
Định hướng thị trường, mặt hàng xuất khẩu chủ lực làm căn cứ để định hướng phát triển sản xuất – kinh doanh.
Nghiên cứu định hướng thị trường, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là giải pháp của Chính phủ tác động vào nguồn rủi ro nhằm giảm nhẹ tổn thất khi có rủi ro do biến động cung cầu, giá cả hàng hóa trên thị trường quốc tế gây ra.
Định hướng đúng đắn về thị trường xuất khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất, có thị trường tiêu thu thuận lợi, với giá cả hợp lý. Thiếu sự hướng dẫn của Chính phủ, người lao động, doanh nghiệp tiến hành sản xuất một cách tự phát, họ chỉ thấy lợi nhuận cao hiện thời mà đổ xô vào kinh doanh, một lúc nào đó giá cả hàng hóa xuống thấp họ gặp rủi ro ngoài sự mong đợi. Do vậy, Chính phủ là người có đủ khả năng để thực hiện vai trò “bà đỡ” cho các doanh nghiệp giảm bớt rủi ro do sự biến động khắc nghiệt của thị trường thế giới.
b. Tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về thị trường quốc tế Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên việc tự tìm kiếm thông tin thị trường, tự cạnh tranh mọi khoản chi phí phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, thiết lập kênh phân phối… là không thể thực hiện.
Chính phủ cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tư vấn pháp lý, nguồn tài chính… để gia nhập thị trường quốc tế một cách vững vàng, hạn chế gặp phải rủi ro khi phải kinh doanh trong tình trạng bất lợi, thiếu thông tin, thiếu bình đẳng.
c. Giám sát thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Rủi ro, tổn thất trong kinh doanh hầu hết xảy ra trong giai đoạn thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngoài việc tự giám sát của mỗi doanh nghiệp, cơ quan quản lý của Chính phủ cần phải tăng cường chức năng giám sát thực hiện hợp đồng đặc biệt là những hợp đồng có giá trị lớn để kịp thời ngăn chặn nguồn rủi ro phát sinh.
Giám sát thực hiện hợp đồng kinh doanh ngoại thương được tiến hành trên cơ sở so sánh giữa hợp đồng với kế hoạch xuất khẩu cấp quốc gia, qua đó Chính phủ thống kê lượng hàng hóa xuất nhập khẩu thực tế và có biện pháp điều chỉnh kịp thời cung cấp hàng hóa trên thị trường nội địa.
4.3.1.3. Tăng cương các biện pháp quản lý kỹ thuật an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu:
Dựa trên quan điểm “phòng hơn chống”, Chính phủ cần có những biện pháp chủ động nhằm ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro, tổn thất bằng cách giảm thiểu mối hiểm họa, nguy cơ, né tránh rủi ro. Vì sự an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu, Chính phủ cần thực hiện một số biện pháp mang tính kỹ thuật sau:
Tăng cường những quy định thống nhất chung về an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu. Ví dụ những quy định về quy trình: an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu. Ví dụ những quy định về quy trình: an toàn trong tài trợ và sử dụng vốn tài trợ, an toàn trong quản lý và sử dụng ngoại tệ, mở tín dụng thư (L/C)…
Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ nhằm tạo thuận lợi và an toàn trong thanh toán xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ: Xây dựng hệ thống cảng biển, đội tàu vận tải, xây dựng hệ thống bảo hiểm, ngân hàng, thị trường vốn, xử lý thông tin, thống kê… hiện đại.
Tăng cường tuyên truyền, tập huấn bồi dưỡng kiến thức về an toàn, phòng ngừa rủi ro, tổn thất trong thanh toán xuất nhập khẩu – lồng ghép kiến thức về an toàn trong chương trình bồi dưỡng, đào tạo về quản trị kinh doanh.
4.3.1.4. Nâng cao vai trò của các đại sứ quán ở nước ngoài, có chính sách phù hợp khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu
Đại sứ quán hỗ trợ tối đa cho cac doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thu thập thông tin thị trường, tìm hiểu đối tác, tìm hiểu phong tục các quốc gia, giải quyết các vụ tranh chấp (nếu có). Đại sứ quán cần thông báo kịp thời cho doanh nghiệp tình hình chính sự tại các quốc gia trên thế giới.
Những vấn đề cần lưu ý của xuất nhập khẩu Việt Nam từ lâu, đó là hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu, vấn đề cơ bản của mặt hàng xuất khẩu: Mặt hàng thô và sơ chế, nhất là nông sản, tỷ lệ chế biến sâu thấp, trên 60% giá trị kim ngạch là mặt hàng xuất khẩu ở dạng thô, giá trị gia tăng thấp; Về hàng công nghiệp: tỷ lệ gia công cao, nhất là may mặc và giầy dép, hàng hóa chưa có thương hiệu trên thị trường thế giới, tính cạnh tranh thấp vì chất lượng và mẫu mã, giá đầu vào cao, chi phí cho xuất khẩu lớn, nhất là thu gom hàng hóa và vận tải, tiêu cực phí ở các khâu vận tải và thủ tục hải quan…