CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM TRA VÀ PHÊ DUYỆT QUYẾT
2.4 Đánh giá chung công tác thẩm tra và phê duyệt quyết toán đối với các
2.4.1 Một số thành tựu đạt được
Công tác thẩm tra và phê duyệt quyết toán đối với dự án hoàn thành ngày càng được nâng cao. Số lượng công việc được xử lí luôn vượt kế hoạch được giao thời gian ngày càng ngắn.
• Về giá trị quyết toán
Năm 2011, giá trị được quyết toán hơn 751 tỷ đồng. qua thẩm tra đã loại các khoản đề nghị quyết toán không đúng chế độ 41 tỷ đồng.
Năm 2012 giá trị quyết toán hơn 1.216 tỷ đồng, qua thẩm tra đã loại các khoản đề nghị quyết toán không đúng chế độ 18 tỷ đồng.
Năm 2013, hoàn thành thẩm tra, trình duyệt quyết toán 198 dư án, công trình ( đạt 104% so với kế hoạch) với tổng giá trị quyết toán hơn 1.289 tỷ đồng; qua thẩm tra đã loại các khoản đề nghị quyết toán không đúng chế độ 2,852 tỷ đồng.
• Về cải cách hành chính
Tiếp tục cập nhật, niêm yết đầy đủ kịp thời các thủ tục hành chính mới ban hành hoặc được sửa đổi, bổ sung, thay thế, đồng thời đề nghị bãi bỏ hoặc hủy bỏ theo quy định, đối với thủ tục hành chính không cần thiết, không phù hợp nhằm cắt giảm chi phí về thời gian và tài chính của nhà đầu tư tập trung vào một số lĩnh vực còn nhiều phiền hà, phức tạp như: đất đai, đầu tư xây dựng.
Tham gia hội đồng và tổ công tác các dự án trọng điểm của chương trinh, thực hiện kiểm tra công tác quản lý tài chính đầu tư trên địa bàn tỉnh.
• Về khai thác và lưu trữ thông tin
Nhập dự toán chi đầu tư trên 1.000 tỷ đồng vao Tabmis, không để ra sai xót, chậm trễ, tạo thuận lợi cho công tác giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Tỉnh.
Thực hiện cải cách hành chính thông qua việc xây dựng chương trinh phần mềm Quản lý hồ sơ quyết toán dự án hoàn thành.
• Đóng góp chung vào thành tựu công tác đầu tư của Tỉnh
Được sự quan tâm của các Sở ngành của Trung ương đã ban hành các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư trên những lĩnh vực và địa bàn khó khăn trên địa bàn tỉnh; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như nâng cấp các tuyến
đường quốc lộ 1A, 1D, 19; hệ thống đèn bay đêm và dẫn bay trong điều kiện thời tiết xấu cho sân bay Phù Cát…Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh quan tâm thực hiện và trực tiếp chỉ đạo công tác xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước, cải cách thủ tục hành chính, ban hành Quyết định 12 (về Quy trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng ngoài KCN và KKT trên địa bàn tỉnh) làm cho môi trường đầu tư thông thoáng; áp dụng các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp về chi phí đào tạo công nhân, xúc tiến thương mại, hạ tầng kỹ thuật, thông tin.
Sở tài chính Tỉnh Bình Định cam kết thể hiện tinh thần trách nhiệm và hợp tác đối với mọi nhà đầu tư và không ngừng cải cách thủ tục hành chính để các dự án đầu tư vào Bình Định được hình thành và triển khai thuận lợi. Hàng quý, hàng năm Sở tài chính Tỉnh Bình Định luôn rà soát các dự án đầu tư thực hiện trên địa bàn của tỉnh. Sau đó, sẽ tổng hợp và báo cáo UBND tỉnh, những dự án gặp khó khăn thì tìm hướng giải quyết cho doanh nghiệp, những dự án không đủ điều kiện triển khai thì đề xuất thu hồi và giao cho đơn vị khác thực hiện.
Với lòng nhiệt thành của lãnh đạo tỉnh cùng những nỗ lực kiến tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút đầu tư vào Bình Định những năm gần đây có sự đột phá ấn tượng.
2.4.2 Một số hạn chế và nguyên nhân
Tuy nhiên công tác thẩm tra và phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành cũng cần có những hạn chế cần khắc phục. Trong những năm qua, UBND tỉnh đã thực hiện chỉ đạo các Sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố tổ chức triển khai thực hiện theo đúng quy định, công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành đã có tiến Sở và từng bước đi vào nề nếp, thực hiện tổ chức thẩm tra quyết toán vốn đầu tư dự án, công trình hoàn thành trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết toán. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quy định về quyết toán vẫn còn xảy ra ở nhiều dự án. Tính đến hết năm 2013, có 24 dự án hoàn thành sử dụng vốn nhà
nước chậm nộp báo cáo trên 6 tháng; các cấp huyện, thành phố có tới 98 dự án hoàn thành chậm nộp báo cáo trên 6 tháng; 118/136 dự án vi phạm thời gian quyết toán dự án hoàn thành theo quy định.
Thứ nhất,hạn chế do sự thiếu hiểu biết chủ đầu tư và nhà thầu thực hiện.
Nhiều chủ đầu tư còn thiếu hiểu biết, không am hiểu về luật cũng như cơ chế gây mất thời gian khi làm việc. Rất nhiều trường hợp chủ đầu tư không làm hồ sơ để phê duyệt khi hoàn thành dự án buộc cán bộ Sở phải nhắc nhở, đôn đốc kèm theo rất nhiều trường hợp làm muộn hoặc không đúng yêu cầu, thậm chí không làm.
Nguyên nhân chậm quyết toán các dự án hầu hết là do chủ đầu tư chậm lập hồ sơ quyết toán vượt quá thời gian quy định hoặc đã lập hồ sơ quyết toán gửi cơ quan thẩm tra, phê duyệt nhưng chất lượng hồ sơ hồ sơ quyết toán thiếu biểu mẫu theo quy định dẫn tới tình trạng kéo dài, vi phạm thời gian quyết toán dự án; Sau khi công trình hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng, chủ đầu tư chưa tích cực lập và hoàn chỉnh hồ sơ quyết toán, chất lượng hồ sơ còn hạn chế, việc hoàn chỉnh lại hồ sơ thiếu tích cực; các đơn vị, chủ đầu tư cấp tỉnh và huyện hàng năm chưa thực hiện quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước theo niên độ ngân sách hằng năm theo quy định, dẫn đến khó khăn trong việc theo dõi tiến độ thực hiện, theo dõi nguồn vốn, dự án hoàn thành để thực hiện đôn đốc các chủ đầu tư lập hồ sơ quyết toán và thực hiện quyết toán các công trình, dự án được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
Quản lý nhà nước về đầu tư còn một số bất cập, đặc biệt thủ tục hành chính còn phiền hà, tình trạng chấp hành chưa nghiêm luật pháp chính sách còn khá phổ biến.
Thứ hai,hạn chế về mặt định lượng
Việc thẩm tra, thẩm định, góp ý kiến về dự án nói chung thực hiện còn chậm, một số trường hợp chất lượng chưa tốt (chưa chặt chẽ, chưa sâu, chưa rõ).
Công tác thẩm tra, thẩm định chưa có khuôn mẫu thống nhất, thiếu tiêu chí, tiêu chuẩn chung và thích hợp với tính chất, yêu cầu công việc (thẩm tra, thẩm định, điều chỉnh dự án, góp ý kiến đối với các chủ đầu tư)chỉ nêu những nhận xét chung chung, thiếu định lượng cụ thể.
Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính dự án sử dụng đều khá đơn giản, dễ tính toán nhưng phần lớn chỉ quan tâm đến việc thu hồi vốn mà không chú ý phần tích luỹ do dự án đem lại sau khi hoàn vốn thông qua chỉ tiêu sử dụng NPV.
Thực sự đây là chỉ tiêu hiệu quả tài chính quan trọng nhất, phản ánh được cả phần chủ đầu tư thu được cũng như sự đóng góp của dự án vào sự tăng trưởng GDP của nền kinh tế.Trong việc phân tích dòng tiền của dự án chỉ mới tính đến ròng tiền lời, lỗ, còn bỏ sót khá nhiều khoản mục cấu thành nên dòng ngân quỹ, làm giảm mức độ chính xác của việc tính toán hiệu quả.
Phần thẩm tra về hiệu quả kinh tế xã hội chưa được quan tâm đúng mức.
Nhiều trường hợp khi dự án vào hoạt động người ta mới phát hiện ra những tác động tiêu cực của nó đối với môi trường, đối với các ngành liên quan cũng như các bất lợi đối với đời sống xã hội. Việc khắc phục rất tốn kém, mất thời gian, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Thứ ba,hạn chế về khai thác thông tin
Tính khả thi, tính hiệu quả, mức độ chắc chắn, an toàn… của dự án phụ thuộc rất lớn vào việc nghiên cứu và thẩm tra về thị trường. Tuy nhiên trên thực tế việc nghiên cứu đánhgiá nội dung này rất sơ sài, phần lớn dừng lại ở mức đưa ra một vài nhận xét định tính. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng, một mặt do hạn chế về nhận thức, mặt khác không có cở sở dữ liệu về thị trường.
Có một số nguyên nhân của tình trạng trên:
- Lực lượng của đơn vị trong năm qua chưa được tăng cường trong khi đó khối lượng công việc ngày càng tăng dẫn đến việc cán bộ Sở chạy theo yêu cầu thời gian thẩm tra do đó mà công tác thẩm tra phần nào bị ảnh hưởng.
- Báo cáo của các Sở, ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu về thời gian và nội dung báo cáo
- Công tác lập dự án chưa đảm bảo tính khả thi: Chất lượng và công tác thẩm tra phụ thuộc vào nội dung của dự án trình duyệt. Đó là căn cứ quan trọng giúp nhà thẩm tra cho các ý kiến về tính khả thi của dự án. Nếu dự án đầu tư được lập một cách đầy đủ các mặt của dự án, thông qua đó những cán bộ Sở thẩm tra có được cơ sở vững chắc trong việc thẩm tra dự án. Hiện nay, trong quá trình thẩm tra dự án, cán bộ Sở thẩm định rất thiếu thông tin về các lĩnh vực của dự án, điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định, độ chính xác của những kết luận.Việc có không đầy đủ những thông tin dẫn đến thời gian thẩm tra bị kéo dài làm ảnh hưởng đến các kế hoạch triển khai dự án. Để có những nhận xét tổng thể về dự án yêu cầu trước hết chủ đầu tư phải lập dự án một cách đầy đủ, trung thực phản ảnh được tổng thể các mặt của dự án.
Các văn bản pháp luật còn thiếu tính đồng Sở, không rõ ràng: Các văn bản pháp luật nêu lên rất chung chung về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định dự án. Rất nhiều văn bản pháp luật đang ở trong giai đoạn điều chỉnh, sửa đổi và hoàn thiện, một số văn bản đã không kịp thời được ban hành để thay thế những văn bản hiện có nhưng đã lỗi thời gây ra nhiều khó khăn cho công tác thẩm định.