Chương 2. BIỂU HIỆN CỦA THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI CỦA VŨ BẰNG
2.2. Thủ pháp xáo trộn các bình diện thời gian
2.2.1. Thời gian hiện tại và thời gian quá khứ
Những suy ngẫm hiện tại chỉ ắp đầy khi mảng hiện thực được ghép nối với bề dày quá khứ. Chính vì thế, nghệ thuật luôn là sự tiếp nối của thời gian từ quá khứ đến tương lai và đan xen trong không gian đa chiều. Trong đó thời gian quá khứ luôn mở ra không gian hồi tưởng. Đó là sự “nhớ lại”, nhưng đồng thời cũng là sự “sống lại” của quá khứ. Quá khứ luôn là một thứ hành trang không thể thiếu để con người sống được trong hiện tại và vươn tới tương lai.
Kỉ niệm quá khứ thường là đẹp và buồn. Tất nhiên có cả những kỉ niệm không êm đẹp, nhưng tất cả đều là hành trang có ích cho một con người. Lại càng là thứ vốn liếng không thể thiếu ở một người làm nghệ thuật.
Hơn ba trăm trang sách Thương nhớ Mười Hai phải mất gần mười hai năm ròng rã mới nên hình nên hài, với mục đích mà theo nhà văn “không có gì cao rộng, chẳng qua chỉ là đánh dấu những ấn tượng hiện ra trong trí óc những buổi mây chiều gió sớm, sầu biệt ly vơi sáng đầy chiều” và khơi
“những mối cảm hoài” của “những người khách thiên lý tương tư” [1, 34].
Sự hồi tưởng của “người cô chích” không chỉ xuất phát từ tâm bệnh sầu
46
thương cố lý mà còn có căn nguyên từ trạng thái thân thế lạc bước trên những nẻo đường chật ních những người bận rộn bên cạnh những người ngoại kiều ăn mặc như phường chèo, nói líu lô buồn nỗi khó nghe. Vì thế trong tập tùy bút, quá khứ và hiện tại luôn đồng hiện trong tương quan đối sánh - đối lập.
Vũ Bằng sống ở miền Nam nhưng không nguôi nhớ về miền Bắc, tâm trạng thường trực là ngày Nam đêm Bắc. Chỉ cần một cơn gió nhỏ, “niềm thương yêu cũ” trở dậy, đánh thức “mối tình tư quy” để cái tôi có những cuộc vượt thoát tâm hồn trở về bến mơ. Ăn một tô hủ tíu thì nhớ tô phở Bắc trong buổi sáng rét căm căm, thấy cua bể thì nhớ bát canh cua đồng nấu với rau rút và khoai sọ, gặp ngày bão rớt lòng rười rượi nhớ thu sơ với gió may, hoa vàng.
Có khi chỉ cần một câu nói rất tầm thường vào một buổi chiều mưa gió đìu hiu cũng gợi lên được những ấn tượng rầu rĩ trong một tấm lòng có mối xông. Cái nguyên cớ ấy thường trực bởi bước đi của thời gian với sự luân hồi trời đất qua các tháng, các mùa. “Trời tháng Ba, nhớ hội hè đình đám, con gái hát ví nghe thật là hay, đàn ông đánh vật xem mà sướng mắt; tháng Bảy, nhớ mưa Ngâu rả rích buồn như lòng khuê phụ nhớ chồng; tháng Tám, cũng thưởng bánh trung thu, cũng cộ đèn, nhưng lại nhớ trăng Cổ Ngư và thèm cái cảnh tưng bừng nhộn nhịp ở Hàng Gai, Hàng Đào, Hàng Mã…; tháng Mười Một nhớ đến gió ở Đọi Điệp lúc tản cư, mặc áo trấn thủ, ngoài khoác varơ đi như muốn bay lên trời mà miệng vẫn không ngớt ngâm bài “Tây Tiến”; tháng Chạp nhớ những con đường ẩm ướt, nhớ mưa phùn rét căm căm, hai vợ chồng lên Đông Hưng Viên ăn một bát “tam xà đại hội” khói bốc lên nghi ngút”…
Trong động hướng tìm về nguồn cội, “người khách xa nhà” không tránh khỏi thiên vị dù vẫn biết “lấy hiện tại so sánh với quá khứ e bị chủ quan mà có sự bất công”. Tuy thừa nhận Sài Gòn là “trời hoa đất rượu” nhưng
“người xa phần tử” “vẫn thương, vẫn nhớ, vẫn yêu, vẫn quý” một “Bắc Việt nghèo như thế, buồn như thế và chịu đựng đau khổ nhiều như thế”. Hà Nội là
47
quá khứ, là kỷ niệm; Sài Gòn là hiện tại, là thực tế. Bất chấp mọi so sánh đều khập khiễng, Vũ Bằng đã đặt Hà Nội và Sài Gòn trong chiều kích đối sánh.
Mùa xuân ở Bắc “có mưa riêu riêu, gió lành lạnh”, “đêm xanh biêng biếc, tuy có mưa rây, nhưng nhìn lên thấy rõ từng cánh sếu bay” còn “ở đây, từ tháng Một, trời nắng chói chang, làm cho đôi mắt mờ, đầu nhức, lúc nào đàn ông cũng được “rửa mắt” bằng những cái vai đẹp hớ hênh, những cái lườn hây hây, hồng hồng hay những cặp đùi mờ mờ nửa trắng, nửa đen, thành thử ra…
hết, không còn có gì mà “cảm” nữa”.
Đến cái mưa cũng khác. “Mưa ở miền Nam lạ lắm. Chính vào lúc mình cầu mưa như thế thì chọc thủng trời ra cũng chẳng mưa, nhiều khi không kèn không trống, trút xuống ầm ầm làm cho người đi đường không kịp tìm chỗ ẩn, khiến người ở trong nhà thấy người đi đường ướt lướt thướt, quần áo dán cả vào mình, cảm thấy ái ngại và tội nghiệp”. Còn mưa ở Bắc là thứ “mưa rây”,
“mưa phiêu phiêu trên đồng ruộng” với “những giọt mưa tím hắt hiu”. Miền Bắc không phải không có mưa rào nhưng “những trận mưa rào đất Bắc nó có đầu có đuôi, có xuôi có ngược, nhất là không bao giờ vừa mưa xong lại nắng liền, mà bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ, tạnh mưa thì mát mẻ hắt hiu, thơ mộng”. Tết hai miền lại càng khác biệt. Tết ở trong Nam “nắng tan vàng nứt đá”, “vỡ đầu xát tai”, “đi ngoài đường một lúc mắt cứ hoa lên”, không thể nào tìm thấy “cái lạnh riêu riêu”, “cái mưa xuân bay nhè nhẹ như hôn vào môi, vào má người ta”, càng không thấy đâu “những hoa đào, hoa mận đú đởn múa may trước gió hiu hiu”, “thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế”.
Hiện tại, quá khứ trong tập ký kết cấu vừa đan xen vừa đối nghịch. Nhà văn thường bắt đầu bằng thực tại rồi chuồi đi trong hoài niệm, tạo nên sự đồng hiện hiện tại - quá khứ trong thế đối lập - đối trọng và cả sự gián cách về không gian - thời gian. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn nhận định tình yêu
48
của Vũ Bằng với đất Bắc là một thứ tình yêu được gián cách trong không gian […] Còn một thứ gián cách nữa, cũng gợi thương nhớ đến quay quắt, là gián cách trong thời gian. Tác giả gọi mình là “người xa nhà”, “người khách xa nhà”, “người xa quê”, “người sầu xứ”, “người lữ khách”, " người gối lẻ",
"người chồng cô chích", "người đàn ông lạc phách", “người đàn ông oan khổ lưu ly”, “người thiên lý tương tư”, “người mắc bệnh sầu thương cố lý”,
"người mang trong mình bảy, tám biệt ly một lúc"… Nghĩa là sống ở miền Nam rất lâu và cũng đã có vợ con nhưng ông vẫn mãi là “người lữ hành đơn côi”. Khi đã xem đây không phải là nhà, cũng không phải là quê thì tất yếu
“người xa xứ” sẽ tìm mọi cách quay về dù chỉ là sự quay về trong tâm tưởng.
“Người di cư” tự hỏi: Bây giờ liễu ở Hồ Gươm có còn xanh mươn mướt như hồi ta bước ra đi? Những chồi sơn trúc, thạch hương ở Nghi Tàm có còn chứa phong quang như cũ? Núi Nùng ra sao? Hồ Tây thế nào? v.v… Trong khi đi tìm thời gian đã mất, một mặt ông cứ nhẩn nha mãi trong kỷ niệm xưa cũ, mặt khác ông vẫn cảm nhận được dòng thời gian đang trôi trên phận người không cách gì níu kéo, chẳng giữ được. Thành ra Thương nhớ Mười Hai nói nhiều đến điệu “đi”, cái “chết” của thời gian “một mùa xuân đã chết”, “mùa xuân cũng đã chết rồi”, “mùa thu sắp chết”, “mùa thu đang chết”, “những đêm giao thừa cực lạc đi không bao giờ trở lại” v.v. Mở đầu và kết thúc tác phẩm đều là tâm trạng rất nguội lạnh “mùa xuân kia có trở lại cũng bằng thừa” theo kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng đã tạo nên hiệu ứng về một thân phận chưa biết bao giờ mới kết thúc vậy mà đã tắt lịm hết mọi ước mơ, hy vọng.
Sự cặp đôi hiện tại và quá khứ đã làm cho thời gian nghệ thuật Thương nhớ Mười Hai vừa liên tục vừa gián cách bởi nhất quán trong mạch cảm xúc hồi cố. Do vậy đồng cảm với Vũ Bằng, như Vương Trí Nhàn nói, trước tiên phải là những ai cùng cảnh ngộ với người xưng tôi trong sách. Nhưng không bắt buộc phải xa Hà Nội hàng ngàn cây số, người ta mới có được tình yêu mê mệt như vậy.
49
Như vậy, trong Thương nhớ Mười Hai thời gian hiện tại và quá khứ bị xáo trộn, có lúc tách bạch, có lúc lại lồng ghép vào nhau. Nhưng tựu chung lại, hiện tại luôn là cuộc sống phong lưu, hào hoa, đủ đầy. Còn quá khứ là cuộc sống nơi Bắc Việt nghèo khó nhưng biết bao nét đẹp từ thời tiết, thiên nhiên đến phong tục tập quán, sinh hoạt của con người là nỗi niềm không nguôi của tác giả. "Sài Gòn, Phú Lâm, Bình Lợi, Chợ Lớn, Lồ Ô, ... vui quá, cứ uống rượu mạnh thế này, nghe con hát đàn vừa múa vũ vừa ca, lại cặp kè với gái hơ hớ như trăng mới mọc thế này, thì sao có thể rầu rĩ được? Ấy vậy mà buổi chiều trở gió kia kia ngồi cúi xuống lòng để hỏi chuyện tim mình, ta cảm giác như hàng vạn con mọt li ti vừa rung cánh vừa đục khoét con tim bệnh tật. Và tự nhiên ta có cảm giác rằng thân thể ta, không biết từ lúc nào, đã bị mối "xông" và đang đi đến chỗ mọt ruỗng, rã rời tan nát." [1, 7-8]
Có thể nói, phần lớn “chuyện” của Thương nhớ Mười Hai là chuyện thuộc về quá khứ, được kể từ điểm nhìn phóng chiếu về thời quá khứ của Vũ Bằng.
Nhờ sự xáo trộn thời gian độc đáo này, chúng ta thấu hiểu hơn về con người Vũ Bằng cũng với những hiểu biết vừa quen vừa lạ của miền Bắc dấu yêu.