Chương IX. VĂN MINH TÂY ÂU TRUNG ĐẠI
9.2. Văn minh Tây Âu thế kỷ XI - XIV
9.2.1. Sự ra đời của thành thị đối với xã hội phong kiến châu Âu a. Sự ra đời của thành thị
Từ cuối thời đế quốc Roma, do sự suy thoái của nền kinh tế hàng hóa, các thành thị Tây Âu đều bị điêu tàn. Đến đầu thời trung đại, để đề phòng sự xâm nhập của các tộc bên ngoài như người Noocmăng, người A -rập và do tình hình hỗn chiến ở Tây Âu, ở Pháp và Đức đã xây dựng những thành lũy mới hoặc khôi phục những công trình phòng thủ ở những đô thị cổ như Pari hay Cô-lô-nhơ. Nơi đây trở thành kinh đô của vua hay trung tâm hành chính của các bá tước, giám mục. Cư dân thành thị phần lớn là bà con của vua hay tôi tớ của lãnh chúa, ngoài ra có một số nông dân và thợ thủ công.
Đến thế kỷ XI, nền kinh tế Tây Âu có bước tiến quan trọng, biểu hiện chủ yếu ở sự phát triển của thủ công nghiệp và nông nghiệp.
Trong thủ công nghiệp, nhiều ngành nghề mới ra đời với kỹ thuật ngày càng hoàn thiện như: khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí..Sự tiến bộ ấy đòi hỏi người thợ thủ công phải chuyên môn hóa, đồng thời, biến thủ công nghiệp từ một nghề phụ của nông nghiệp thành một ngành độc lập.
Nông nghiệp cũng có nhiều tiến bộ: công cụ lao động được cải tiến, diện tích và sản lượng gia tăng. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, nông dân còn thừa một ít nông sản để đem đổi lấy các mặt hàng thủ công. Như vậy, nông dân cung cấp lương thực, thực phẩm cho thợ thủ công, tạo điều kiện cho họ có thể hoàn toàn tách rời khỏi nông nghiệp. Chính sự tách rời giữa thủ công nghiệp và nông nghiệp là một điều kiện quan trọng dẫn đến sự ra đời của các thành thị trung đại ở châu Âu.
b. Quá trình ra đời của thành thị
Sự ra đời của các thành thị ở châu Âu diễn ra vào khoảng thế kỷ X, XI tùy theo trình độ phát triển kinh tế và vị trí địa lý của từng vùng.
Do kỹ thuật sản xuất tiến bộ và năng suất lao động tăng cao, những người thợ thủ công ở vùng nông thôn đã từ chỗ làm việc theo yêu cầu đặt hàng của người tiêu dùng chuyển sang chuyên sản xuất hàng hóa để đem bán ở thị trường. Để tiện cho việc tiêu thụ sản phẩm của mình và để thoát khỏi sự nô dịch của lãnh chúa, những người thợ thủ công này đã trốn khỏi nông thôn đến những nơi có điều kiện thuận lợi cho việc lao động sản xuất như gần nơi cung cấp nguyên liệu, nhiều khách hàng, tương đối an toàn…Đó có thể là kinh đô của nhà vua, thành lũy của lãnh chúa, hay các trung tâm tôn giáo, các giao điểm của các đường giao thông, đầu cầu, bến đò, cửa sông..
99
Lúc bấy giờ, thợ thủ công cũng chính là người bán các sản phẩm của mình, nên những nơi họ đến cư trú và sản xuất lập tức đã trở thành những trung tâm công thương nghiệp. Tiếp đó, nông dân cũng không ngừng chạy đến những nơi này làm cho dân cư ở đây ngày thêm đông đúc rồi dần dần hình thành các thành phố.
Ở Tây Âu, thành thị ra đời tương đối sớm ở Italia, miền Nam nước Pháp do kinh tế ở đây phát triển, quá trình tách rời giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp diễn ra sớm hơn ở những nơi khác. Tiếp đó là các thành phổ ở Bắc Pháp, Đức và các nước Tây Âu khác.
Thành thị ở châu Âu lúc bấy giờ rất thô sơ, xung quanh thành phố có thành xây bằng đá, bằng gạch, thậm chí bằng gỗ, có hào sâu, có tháp canh, có cổng thành chắc chắn cứ đến tối lại đóng lại để bảo vệ dân cư trong thành phố chống lại sự tấn công của kẻ thù. Khi dân cư trong thành phố tăng lên, trong thành không còn chỗ để ở thì người ta phải sinh sống ở ngoài thành.
Ở phía ngoài khu cư trú mới này, người ta lại xây dựng một vòng thành và các công trình phòng vệ mới. Quá trình đó cứ tiếp diễn tạo thành các đô thị có dạng hình tròn đồng tâm.
Trong các thành phổ, đường phố ngang dọc chằng chịt, những người thợ thủ công thường sống tập trung tại một khu vực, do đó tên phố thường được đặt thêm tên nghề nghiệp như phố thợ Rèn, phố thợ Mộc..
c.Về hoạt động kinh tế của các thành thị
Ngành kinh tế quan trọng nhất là thủ công nghiệp. Cũng giống như nông dân, thợ thủ công thời bấy giờ là những người sản xuất độc lập. Họ làm việc ngay tại nhà mình với nguyên liệu và công cụ lao động của mình. Tuy vậy, để đảm bảo cho việc sản xuất được thuận lợi, những người thợ thủ công ở thành thị đã tổ chức thành những đoàn thể nghề nghiệp gọi là phường hội hay hàng hội.
Tổ chức phường hội ra đời hầu như đồng thời với sự xuất hiện của các thành thị. Ở Italia, phường hội được thành lập ở thế kỷ X, còn các nước khác như Anh, Pháp, Đức, Tiệp Khắc thì đến thế kỷ XI mới có phường hội.
Mục đích thành lập phường hội nhằm:
- Bảo đảm sự đồng đều về quyền lợi trong việc sản xuất cũng như trong khâu mua nguyên liệu và bán sản phẩm, tránh sự cạnh tranh lẫn nhau giữa những thợ thủ công cùng ngành nghề.
- Bảo vệ sự độc quyền về nghề nghiệp của mình, chống lại sự cạnh tranh cảu những nông nô không ngừng chạy vào thành thị và cũng làm nghề đó.
- Đoàn kết với nhau nhằm chống lại sự hạch sách và cướp bóc của lãnh chúa phong kiến.
Cùng với sự phát triển của nền thủ công nghiệp, và sự ra đời của nhiều ngành nghề mới, số lượng phường hội tăng lên nhanh chóng. Ví dụ ở Pari, giữa thế kỷ XIII mới chỉ có 78 phường hội, thế mà sang thế kỷ XIV đã tăng lên đến 300 phường hội. Đến thế kỷ XIV – XV phường hội bắt đầu bước vào quá trình tan rã.
Thương nghiệp: Thành thị không những là trung tâm thủ công nghiệp mà còn là trung tâm thương nghiệp. Lúc đầu, thợ thủ công là những người bán những sản phẩm của mình cho người tiêu dùng. Về sau : “ sự phát triển thêm nữa của sự phân công lao động dẫn đến sự tách rời giữa lao động thương nghiệp với lao động công nghiệp”
100
Sự trao đổi hàng hóa diễn ra ở các thành thị và vùng xung quanh. Hàng hóa được đem ra trao đổi là các sản phẩm thủ công do thành thị sản xuất và các loại nông sản như lương thực, rau củ quả, thịt cá từ nông thôn đưa vào thành thị.
Để trao đổi sản phẩm cuả các nước châu Âu với các sản phẩm quý hiếm từ phương Đông chở sang như tơ lụa, hồi quế, đinh hương.. ở các nước Tây Âu thường tổ chức hội chợ.
Các hội chợ này thường tổ chức mỗi năm một lần, mỗi lần kéo dài 1-2 tuần. Với các nước Bắc Âu, việc buôn bán với phương Đông được thực hiện qua 2 khu vực mậu dịch: khu vực Địa Trung Hải gồm các thành thị Genova, Venexia (Italia), Mác-xây (Pháp) và Bacelona (Tây Ban Nha), hai là khu vực Bắc Hải và biển Bantich gồm các thành thị ở Bắc Đức, Đan Mạch, bán đảo Xcangdinavi…
Sự phát triển của mậu dịch quốc tế đã dẫn đến sự ra đời của ngân hàng. Ngân hàng bắt đầu từ nghề đổi tiền. Do tiền tệ ở các nơi là khác nhau nên muốn mua bán ở các hội chợ thì phải đổi lấy loại tiền được lưu hành ở địa phương đó. Dần dần những người kinh doanh nghề đổi tiền đã cử nhân viên của mình đến nhiều nơi ở châu Âu. Các thương nhân không cần mang tiền khi đi đường, vừa cồng kềnh, vừa nguy hiểm mà chỉ cần đem tiền đến nộp cho người đổi tiền ở thành phố mình, sau đó nhận một giấy chuyển tiền và khi đến hội chợ sẽ nhận số tiền tương ứng.Về sau, hoạt động của ngân hàng còn bao gồm cả việc nhận tiền gửi, cho vay nợ…
d. Ảnh hưởng của thành thị đối với chế độ phong kiến
Sự ra đời của thành thị là một biểu hiện của sự phát triển của chế độ phong kiến ở châu Âu.Song, thành thị, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế hàng hóa cũng đã phá hoại ngầm chế độ phong kiến
Trước hết, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa đã làm tan rã nhanh chóng nền kinh tế tự nhiên. Trong cuộc sống hàng ngày, cư dân thành thị cần có lương thực thực phẩm. Trong việc sản xuất thủ công nghiệp, thành thị cần có nguyên liệu (như Nho, lông Cừu). Tất cả những thứ đó thành thị đều dựa trên sự cung cấp của nông thôn, do đó đã tạo nên mối liên hệ kinh tế chặt chẽ giữa nông thôn và thành thị, lôi cuốn nhiều trang viên phong kiến vào việc sản xuất hàng hóa. Ví dụ: trang viên ở Anh tập trung vào việc sản xuất lông cừu, Pháp chuyên trồng rượu nho…Như vậy, nền kinh tế tự cung tự cấp trong các lãnh địa, đặc trưng của nền kinh tế phong kiến phương Tây đã bắt đầu thay đổi.
Thứ hai, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa đã góp phần quan trọng vào việc làm tan rã chế độ nông nô. Do hàng hóa sản xuất ngày càng nhiều trên thị trường, trong đó một phần do thành thị sản xuất, một phần do phương Đông mang đến, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng của giai cấp phong kiến ngày một tăng. Để có tiền mua các loại hàng hóa đó, các lãnh chúa đã thay thế tô lao dịch và tô sản phẩm bằng tô tiền và nhiều lãnh chúa còn đồng ý cho nông nô dùng tiền để chuộc lấy tự do. Sau khi nộp đủ tiền cho lãnh chúa, họ hoàn toàn thoát khỏi thân phận nông nô. Như vậy, quan hệ tiền tệ đã làm cho quan hệ nông nô bắt đầu lỏng lẻo và do đó đã phá hoại từ bên trong chế độ phong kiến.
Thứ ba, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa làm cho mối liên hệ kinh tế giữa các địa phương trở nên chặt chẽ hơn, do đó tạo điều kiện cho việc thành lập các quốc gia thống nhất.
Đồng thời, thị dân còn đóng vai trò tích cực trong việc ủng hộ nhà vua chống lại các thế lực cát cứ để thống nhất đất nước, xây dựng bộ máy nhà nước trung ương tập quyền.
101
9.2.2. Thành tựu văn hoá Tây Âu thế kỷ XI - XIV 9.2.2.1. Sự ra đời của các trường đại học
Nhu cầu tri thức của thị dân ngày càng cao, họ đã nhận thấy giá trị lớn lao của văn hoá.
Trường học của nhà thờ không đáp ứng được nhu cầu về văn hoá đa dạng, thiết thực của tầng lớp thị dân, điều đó đã dẫn tới sự xuất hiện các trường đại học ở Tây Âu vào thế kỉ XII - XIII.
Các đại học - University phát sinh từ chữ Universitas, nghĩa là cộng đồng, ra đời một cách tự phát ở Tây Âu thời trung đại. Quả thực thầy và trò kết hợp thành các hội đoàn tương tự như phường hội thợ thủ công. Với tư cách là những định chế năm trong lãnh thổ của thành thị, họ đấu tranh đòi được hưởng các quyền tự trị về pháp lí và hành chính, nghĩa là không lệ thuộc vào các giới chức thần quyền và thế quyền. Tiêu biểu cho các trường đại học xuất hiện giai đoạn này là trường Paris, Sorbone ở Pháp; Oxford, Cambridge ở Anh; Bologna, Napoli ở Ý... Đến cuối thế kỉ XIV, ở Tây Âu đã có tất cả khoảng 40 trường đại học. Mỗi trường đều tạo cho minh một thế mạnh riêng.
Ngôn ngữ sử dụng trong các trường đại học vẫn là tiếng Latinh. Phương pháp giảng dạy là giảng thuật. Sinh viên lên lớp nghe giảng, ghi chép và thảo luận. Kết thúc khoá học, sinh viên cũng làm luận văn và bảo vệ luận văn tốt nghiệp. Các học vị như cử nhân, tiến sĩ cũng được sử dụng trong các trường đại học.
Về mặt tổ chức, các trường thường gồm có hiệu trưởng, khoa trưởng của 4 khoa: Nghệ thuật (gồm cả văn chương và khoa học), Thần học, Y học và Luật học.
Giáo sư là những người thế tục chứ không phải chỉ là các giáo sĩ như trường học của nhà thờ. Như vậy, các trường đại học muốn tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của giáo hội và hoạt động độc lập. Các trường đại học đã trở thành trung tâm văn hoá, khoa học, nơi truyền bá những tư tưởng tiến bộ. Vì vậy sau này, giáo hội lại tìm mọi cách để kiểm soát hoạt động của các trường đại học.
Trong số các trường đại học ở Tây Âu lúc bấy giờ, điển hình nhất và cũng nổi tiếng nhất là Trường đại học Pari, ra đời từ nửa đầu thế kỉ XII. Sinh viên ở đây thành lập 4 hội đồng hương là Noócmăngđi, Anh, Gôlơ và Picácđi. Các giáo sư cũng gia nhập những tổ chức mà về sau phát triển thành các khoa. Đến cuối thế kỉ XII, các tổ chức của sinh viên và giáo sư mới bắt đầu liên hợp lại, bầu ra Hiệu trưởng để điều hành việc giảng dạy và học tập. Năm 1200, quy chế do trường đặt ra được vua Philíp II phê chuẩn, và như vậy, Trường đại học Pari được chính thức thành lập.
Trường đại học Pari có 4 khoa là Nghệ thuật, Y học, Luật học và Thần học, trong đó Nghệ thuật là khoa sơ cấp, chương trình học tập là “bảy môn nghệ thuật tự do”. Tốt nghiệp bậc sơ cấp thì được cấp bằng Cử nhân. Các khoa Y học, Luật học và Thần học thuộc về bậc cao cấp. Chỉ những người đã có bằng Cử nhân mới được tiếp tục học. Tốt nghiệp bậc cao cấp thì được cấp bằng Thạc sĩ hay Tiến sĩ. Những người có bằng Cử nhân, Thạc sĩ hay Tiến sĩ mới được làm giáo sư giảng dạy ở trường đại học.
Ngôn ngữ dùng để giảng dạy trong nhà trường là tiếng Latinh. Phương pháp học tập là lên lớp nghe giảng, ghi chép và thảo luận, trong đó thảo luận giữ vai trò rất quan trọng. Khi tốt nghiệp, sinh viên phải làm luận văn và phải bảo vệ luận văn.
102
Phương pháp tổ chức giảng dạy và học tập ở các trường đại học khác ở châu Âu cũng tương tự như thế. Như vậy, nội dung học tập trong các trường đại học ở châu Âu trong thời kì này không phải chỉ thần học và các thầy giáo không phải là các giáo sĩ mà là những người thường. Thế là trường đại học đã thoát li khỏi Giáo hội và phát triển một cách tự do, đó là điều giáo hội không thể chấp nhận được, nên giáo hội phải tìm cách nắm lấy trường đại học, loại trừ các giáo sư có tư tưởng chống giáo hội và ca ngợi lí trí con người. Đến giữa thế kỉ XIII, Trường đại học Pari bị giáo hội khống chế hoàn toàn. Nhiều giáo sư tiến bộ bị đuổi và thay thế bằng các giáo sĩ. Từ đó môn học chiếm vị trí quan trọng nhất trong trường đại học là môn triết học kinh viện. Tuy nhiên Y học và Luật học là những môn học thực dụng nên vẫn được duy trì.
9.2.2.2. Văn học
Đến thời kì này, ngoài văn học dân gian bao gồm các bài hát, các truyện kể… và văn học Latinh (hay văn học nhà thờ) bao gồm thơ, kịch, truyện viết bằng tiếng Latinh về đề tài tôn giáo, còn có hai loại văn học mới thể hiện sự phát triển của nền văn học Tây Âu là văn học kị sĩ và văn học thành thị.
Vào khoảng thế kỉ XII, do sự trưởng thành của mình và do sự ảnh hưởng của văn minh thành thị , giai cấp quý tộc phong kiến Tây Âu đòi hỏi phải có một dòng văn học phục vụ cho đời sống tinh thần của mình. Trong hoàn cảnh ấy, có nhiều văn nhân du khách vào tận các lâu đài của các lãnh chúa, kể cho họ nghe những câu chuyện li kì của các hiệp sĩ, cũng có khi họ hát những bài hát ca ngợi ông chủ anh hùng khẳng khái, bà chủ diễm lệ yêu kiều. Hình thức sinh hoạt văn nghệ ấy làm cho cuộc sống tẻ nhạt của các lãnh chúa trong những lâu đài kín cổng cao tường trở nên vui vẻ, do đó các văn nhân ấy đã được gia đình quý tộc nuôi làm thực khách để chuyên môn mua vui cho họ. Văn học kị sĩ vì vậy càng có điều kiện phát triển.
Văn học kị sĩ thường được bắt nguồn từ những câu chuyện được lưu truyền trong nhân dân, nhưng nhân vật chính trong đó được xây dựng thành một con người mang đầy đủ các tính cách của giới kị sĩ, đó là trung thành với lãnh chúa, ngoan đạo, tôn thờ người đẹp và dũng cảm trong chiến đấu, nhất là đối với dị giáo.
Văn học kị sĩ có thể chia làm hai loại chính là anh hùng ca và thơ trữ tình. Bài ca Rôlăng, Bài ca Xít, Bài ca Nibêlunghen là những bản anh hùng ca tương đối nổi tiếng lúc bấy giờ.
Còn loại thơ trữ tình thì chủ yếu phát triển ở Đức và Pháp. Tình yêu lãng mạn, say đắm và mạo hiểm kiểu kị sĩ là chủ đề của loại thơ này mà tác phẩm tiêu biểu nhất là Tơrixtăng và Ydơ.
Bắt nguồn từ một truyền thuyết lưu hành trong các bộ lạc Xentơ và được bổ sung bằng một số chi tiết bắt chước câu chuyện cánh buồm đen và cánh buồm trắng trong thần thoại Êgiê, tác phẩm này miêu tả tình yêu mãnh liệt giữa Tơrixtăng và Ydơ :
“Ydơ là người yêu của tôi, Ydơ là cả cuộc đời của tôi, sự sống và sự chết của tôi đều do nàng định đoạt”.
“Thiếu tôi nàng không thể sống, và tôi cũng không sống được nếu thiếu nàng”
Văn học thành thị ra đời vào khoảng giữa thế kỉ XII, khi tầng lớp thị dân đang ngày một lớn mạnh. Nguồn gốc của dòng văn học này cũng là dân ca và những truyện dân gian do những người thợ thủ công vốn là nông nô đưa từ nông thôn vào thành thị. Vì vậy loại văn học này viết