Chương XI. VĂN MINH THẾ KỶ XX
11.3. Xu thế toàn cầu hóa và những tác động
Cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa là những quá trình vận động kinh tế, kỹ thuật, xã hội năng động nhất trong thế giới hiện đại, nó không chỉ tạo ra sự biến đổi của các hiện tương kinh tế, mà còn làm biến đổi cả trật tự kinh tế thế giới. Đặc biệt, sau sự kết thúc của Chiến tranh lạnh, thế giới chuyển từ Trật tự hai cực Ianta sang thời kì điều chỉnh, sắp xếp lại lực lượng, trong đó có trật tự thế giới, mà hạt nhân là trật tự kinh tế thế giới mới, đang được điều chỉnh và hoàn thiện.
Trong khoảng hai thập kỷ gần đây, khái niệm “toàn cầu hóa” được đề cập một cách rộng rãi. Tuy nhiên, để có một sự thống nhất về khái niệm này thì chưa có. Theo “Từ điển Bách khoa tổng hợp” (tiếng Pháp, 1994-1995) thì, toàn cầu hóa là một quá trình hay kết quả của một quá trình làm cho nó có “chiều kích” toàn cầu.
Theo Thomas L.Friedman, toàn cầu hóa “là một sự hội nhập không thể đảo ngược giữa những thị trường, quốc gia và công nghệ, tới mức chưa từng có-theo phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn, công ti và nhà nước vươn quan hệ đến nhiều nơi trên thế giới xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp hơn bao giờ hết. Quá trình toàn cầu hóa cũng khiến nảy sinh chống đối dữ dội từ những ai bị thiệt hại hay bị hệ thống mới bỏ rơi”4
Ngày nay, toàn cầu hóa mà trước hết và thực chất là toàn cầu hóa kinh tế, đang trở thành một đặc trưng chủ yếu của sự phát triển thế giới. Cho đến nay vẫn chưa có nột định nghĩa đầy đủ, chính xác và thống nhất về toàn cầu hóa kinh tế. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) định nghĩa toàn cầu hóa là “sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng lên của thổng thể các nước trên toàn thế giới, do việc gia tăng khối lượng và sự đa dạng trao đổi xuyên biên giới của các sản phẩm và dịch vụ cũng như do các luông vốn quốc tế đồng
4 Thomas L.Friedman: Chiếc Lexus và cây ôliu ( bản tiếng Việt). Nxb Khoa học xã hội, Tp. HCM, 2005, tr.46.
162
thời với việc phổ biến công nghệ ngày càng rộng khắp”.5
Mặc dù có nhiều quan niệm không giống nhau về toàn cầu hóa kinh tế, nhưng theo nhóm các nhà nghiên cứu cho rằng, cũng có những điểm chung nhất: “Thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước, mang tính toàn cầu. Các dòng hàng hóa, dịch vụ, vốn và nhân lực đang dịch chuyển từ nước này đến nước khác ngày càng mạnh, ngày càng tự do hơn; tính chất của sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ở tầm quốc tế và trong hợp tác quốc tế cũng đạt cấp độ mới. Từ đó có thể hiểu toàn cầu hóa kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển cũng như trình độ khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hóa của sản xuất ngày càng tăng”.6
11.3.2 Những biểu hiện của toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa kinh tế có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, được bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hóa sản xuất trên phạm vi quốc tế. Giai đoạn trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời đã xuất hiện mầm mống của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế. Nhưng chỉ sau khi có các cuộc phát kiến địa lý ở thế kỉ XV – XVI, cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật hàng hải, thì xu hướng toàn cầu hóa kinh tế mới thực sự bắt đầu. Chủ nghĩa tư bản càng lớn mạnh thì xu thế toàn cầu hóa càng phát triển.
Từ cuối thế kỉ XIX đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất được coi là một giai đoạn phát triển của toàn cầu hóa. Đây cũng là thời kỳ bành trướng thị trường của các nước tư bản chủ nghĩa. Thời kỳ từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối thập niên 40 của thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hóa bị suy giảm do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 và Chiến tranh thế giới thứ hai. Bắt đầu từ thập niên 50 đến thập niên 70 thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hóa tiếp tục bùng phát mạnh mẽ. Cuối thập niên 70 đến cuối thập niên 80, xu hướng toàn cầu hóa lại có phần giảm sút. Cuối thập niên 80 thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hóa lại bùng lên mạnh mẽ. Theo Thomas L.Friedman thì, giai đoạn từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất cho đến cuối thập niên 80 “là một cách nghỉ giữa hiệp kéo dài từ kỷ nguyên toàn cầu hóa này sang kỷ nguyên khác”7. Ông gọi giai đoạn toàn cầu hóa cuối thập niên 80 trở lại đây là “ toàn cầu hóa hiệp II” và “sự khác biệt giữa hai kỷ nguyên toàn cầu hóa theo cách: nếu kỷ nguyên đầu tiên thu nhỏ thế giới từ cỡ “trung” thành cỡ
“nhỏ”8. Sở dĩ trong giai đoạn hiện nay, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ là do nhiều yếu tố tác động. Trước hết, cùng với Chiến tranh lạnh kết thúc, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, tình hình thế giới đã có những chuyển biến quan trọng: một trật tự quốc tế mới đang dần dần được xác lập, xu thế hòa bình, hợp tác, đối thoại để phát triển đã trở thành xu thế chủ đạo của quan hệ quốc tế. Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão. Thứ ba, sự quốc tế hóa hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thứ tư, chính sách tự do hóa của các nước.
Sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo lập những nhân tố cực
5 Nguyễn Khắc Thân, ( chủ biên): Tập bài giảng về chủ nghĩa tư bản hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.234.
6 Nguyễn Khắc Thân, Sđd, tr236
7 Thomas L.Friedman, Sđd, tr26
8 Thomas L.Friedman, Sđd, tr29
163
kỳ quan trọng thúc đẩy quá trình toan càu hóa diễn ra với tốc độ cao. Trước hết, mạng lưới thông tin toàn cầu, bao gồm mạng lưới điện thoại, fax, internet… nối liền với nhau bằng hệ thống các “ đường thông tin siêu cao tốc”, tạo ra khả năng tiếp cận toàn cầu, thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia, dân tộc. Thứ hai, mạng lưới và hệ thống siêu thị toàn cầu. Đây không chỉ là công cụ để các công ty bán sản phẩm của họ trên khắp toàn cầu mà còn làm cho các xí nghiệp có thể đưa ra mục tiêu chiến lược là bán hàng ở khắp mọi nơi trên thế giới. Do vậy, giao lưu hàng hóa diễn ra hết sức nhanh chóng, thuận tiện khắp mọi khu vực trên toàn cầu. Đặc biệt sự xuất hiện thương mại điện tử càng làm gia tăng tốc độ phát triển của buôn bán giữa các nước. Thứ ba, hệ thống và mạng lưới tài chính toàn cầu.
Năm 2000, tổng kim ngạch đầu tư trực tiếp ở nước ngoài của các nước đạt gần 3.000 tỉ USD. QUy mô đầu tư gián tiếp còn lớn hơn nhiều lần. Tính đến năm 1996, tổng số vốn trên thị trường cổ phiếu thế giới là 20.200 tỉ USD. Hiện nay, tổng giá trị giao dịch tài chính quốc tế hàng ngày trên toàn cầu vượt quá 3.500 tỉ USD. Để có được điều này, là do chính sách mở cửa, tự do hóa thị trường tài chính – tiền tệ cùng với việc ứng dụng kỹ thuật hiện đại trong nghiệp vụ tiền tệ đã góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển các nguồn vốn dưới nhiều hình thức ở quy mô lớn trên phạm vi toàn cầu. Thứ tư, sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia. Hiện nay trên thế giới có khoảng 60.000 công ty mẹ, 500.000 công ty con. Tổng giá trị tài sản là 30.515 tỉ USD, sử dụng 34,5 triệu lao động. Để giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh quốc tế, các công ty xuyên quốc gia đã trở thành một lực lượng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, bức tranh chung của toàn cầu hóa kinh tế được thể hiện như sau:
- Hình thành “nền kinh tế tri thức” với đặc trưng cơ bản là tri thức trở thành nội dung chủ yếu của sản cuất, phân phối và tiêu dùng. “Kinh tế tri thức” ra đời dựa trên thành quả của cuộc cách mạng thông tin. Trong nền kinh tế tin học, các ngành thông tin như: tính toán, dịch vụ kết hợp trở thành các ngành chủ đạo. Nền kinh tế thông tin lấy thị trường toàn cầu làm địa bàn hoạt động, lấy tổ chức xí nghiệp kiểu mạng lưới mở rộng khắp toàn cầu là chủ yếu.
- Vận động của tư bản chủ yếu thể hiện ở tiền vốn lưu chuyển xuyên quốc gia với quy mô ngày càng lớn, tốc độ nhanh, phạm vi rộng. Cùng với sự lưu chuyển của vốn là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1983 đến năm 1988, FDI trên thế giới mỗi năm tăng trên 20%, trong đó có khoảng 85% giá trị FDI xuất phát từ các nước phát triển, chủ yếu là nhóm G7. Đầu tư trực tiếp của nhóm G7 tăng liên tục từ 139,73 tỉ USD năm 1991 đến 270,12 tỉ USD năm 1997.
- Sự biến đổi và tăng trưởng không ngừng của thương mại quốc tế. Sự vận động của tư bản quốc tế dưới hình thức tư bản hàng hóa ngày càng tăng, bên cạnh đó, mối liên hệ kinh tế giữa các quốc gia, các vùng trên thế giới trở thành xu hướng tất yếu của quá trình toàn cầu. Từ năm 1986 đến năm 1996, khối lượng chu chuyển hàng hóa trên thế giới tăng trung bình 6,5%. Từ năm 1985 đến năm 1994, phần buôn bán quốc tế trong GDP thế giới tăng gấp 3 lần so với các thế kỉ trước và tăng 2 lần so với năm 1970.
- Vai trò ngày càng lớn của kĩ thuật và quan hệ chặt chẽ của nó với thông tin trong quá trình vận động của tư bản xuyên quốc gia. Các thị trường tài chính thế giới và những luồng thông tin lan truyền đến các thực thể kinh tế thông qua dao động của giá cả, tỉ giá;
164
cùng với sự phản ứng linh hoạt của thị trường tài chính trước các luồng vận động của thông tin đang trở thành lực lượng mạnh nhất tác động đến nền kinh tế thế giới. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mĩ (tháng 10/1987), cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Mĩ Latinh (19970 và ở châu Á (1997-1998) liên quan chặt chẽ đến sự vận động của luồng thông tin khổng lồ trên thế giới.
- Hai loại hình tổ chức kinh tế quốc tế có tác dụng điều tiết kinh tế toàn cầu được hình thành. Loại thứ nhất, thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thế giới ở tầm vĩ mô dưới hình thức khuyến nghị đối với các chính phủ, bao gồm các cơ quan chức năng kinh tế của Liên Hợp Quốc như UNDP,… và các cơ cấu kinh tế quốc tế: IMF, WB, OECD,… Loại thứ hai, là TNCs, điều tiết ở tầm vi mô. Vai trò của TNCs là những mắt xích nối liền các khâu của nền kinh tế có trình độ phát triển khác nhau lại thành một chỉnh thể và chúng là lực lượng truyền tải kĩ thuật, đầu tư, hàng hóa từ các trung tâm ra khắp thế giới. Từ năm 1996, các công ti này nắm trong tay 6680 tỉ USD. TNCs đầu tư ra nước ngoài khoảng 3000 tỉ USD.
Cùng với toàn cầu hóa và bổ sung cho toàn cầu hóa là xu thế khu vực hóa vừa là sự thể hiện, vừa là sự phản ứng đối với xu thế toàn cầu hóa, nó phản ánh sự khác biệt, mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia, khu vực trong một thế giới đa cực, sự hợp tác và liên kết quốc tế ngày càng tăng lên, nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất gay gắt , quyết liệt.
11.3.3. Tác động của toàn cầu hóa a, Tác động tích cực
Một là, toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy tự do hóa mậu dịch phát triển. Tình hình buôn bán của các quốc gia trên thế giới hiện nay hầu như không tồn tại tình trạng thị trường đơn nhất cho dù ở các nước kinh tế phát triển. Giờ đây, hầu như thị trường nội địa của các nước đều gắn với thị trường thế giới, coi thị trường nước mình là một bộ phận của thị trường thế giới, sự hòa nhập của cộng đồng tăng lên. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng như ngành ngoại thương đóng vai trò rất lớn đối với tăng trưởng giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và chiếm tỉ lệ tương đối cao.
Hai là, toàn cầu hóa kinh tế đã đẩy mạnh tiến trình quốc tế hóa lưu thông tiền vốn, có lợi cho tự do hóa đầu tư.
Toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho tiền vốn được quốc tế hóa và di chuyển dễ dàng từ nước này qua nước khác. Toàn cầu hóa kinh tế không chỉ thúc đẩy đầu tư trực tiếp quốc tế tăng lên mà ở mức độ lớn đã thúc đẩy tự do hóa đầu tư. Những năm đầu thế kỉ XXI, do nhân tố môi trường đầu tư được cải thiện, xu thế lưu thông tự do đầu tư đã tăng lên rõ rệt.
Theo “Báo cáo của Hội nghị mậu dịch Liên Hợp Quốc” năm 2004, thì hai nước có lượng tiền vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào nhiều nhất là Mĩ và Anh, trong đó Mĩ tiếp nhận tới 96 tỉ USD và Anh là 78 tỉ USD. Mặc dù các nước đang phát triển đã ra sức mở cửa thị trường tiền vốn nước mình và đưa ra chính sách ưu đãi cho thương nhân nước ngoài tới đầu tư, nhưng cơ chế và thị trường còn nhiều khâu yếu kém, nên trình độ tự do hóa tiền vốn của các nước đang phát triển kém hơn nhiều so với các nước phát triển.
Thứ ba, toàn cầu hóa kinh tế đã tạo điều kiện cho tự do hóa lưu chuyển tiền tệ.
Trong tình hình hiện nay, bất kì cơ quan ngân hàng tài chính tiền tệ và thị trường chứng
165
khoán của nước nào đều phải phát triển theo chiều hướng toàn cầu hóa. Nếu xa rời xu thế thì không thể nói tự do hóa lưu chuyển tiền vốn. Hiện nay, nghiệp vụ ngân hàng của một nước có thể đột phá và vượt ra khỏi sự hạn chế về biên giới của nước đó để phát triển ra nước khác và thông qua hệ thống internet để vươn ra trên phạm vi toàn cầu. Ba thị trường chứng khoán nổi tiếng là Niu Yoóc, Luân Đôn và Tôkyo giờ đây đã len lỏi tới khắp nơi trên thế giới để thu hút tiền vốn. Thông qua việc không ngừng điều chỉnh tỉ giá hối đoái, những đồng tiền như đô la Mĩ, euro của châu Âu, franc của Thụy Sĩ đều trở thành đồng tiền dự trữ và có thể tự do lưu hành ở các nước cùng với quá trình tự do hóa lưu thông tiền tệ. Như vậy, tiền tệ được tự do lưu hành như hiện nay là do tác động mạnh mẽ của tiến trình tự do hóa kinh tế toàn cầu.
Thứ tư, tự do hóa kinh tế toàn cầu đã thúc đẩy sản xuất xuyên quốc gia. Những năm gần đây, đặc điểm nổi bật nhất của sản xuất xuyên quốc gia là sản xuất của các công ti xuyên quốc gia mở rộng mạnh mẽ ra các nước. Đầu năm 1994, khu vực tự do hóa mậu dịch Bắc Mĩ vừa mới khởi động, các công ti xuyên quốc gia của Mĩ đã nhân cơ hội này thành lập các công ti con ngay gần biên giới Mêhicô. Những công ti này đã lợi dụng nguyên vật liệu, tài lực, vật lực của địa phương sản xuất hàng hóa giá rer đưa về thị trường nội địa Mĩ.
Thứ năm, toàn cầu hóa cũng tạo ra những cơ hội to lớn cho các nước đang phát triển rút ngắn khoảng cách. Cơ hội lớn nhất cho các nước đang phát triển là thông qua cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và toàn cầu hóa tạo điều kiện đón đầu được công nghệ hiện đại để áp dụng ngay vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Các công nghệ, tri thức khoa học hiện đại mang đặc điểm là tác động nhanh chóng, xuyên suốt tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cho nên có thể tận dụng mạng internet để tiếp cận, nắm bắt. Nếu có sự chuẩn bị tốt thì đây là cơ hội to lớn để giúp các nước đang phát triển có thể tạo ra những bứt phá ngoạn mục nhằm khắc phục hố ngăn cách giàu-nghèo và sự tụt hậu về trình độ phát triển so với các nước công nghiệp tiên tiến.
Toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi chuyển giao những thành quả mới mẻ, những đột phá sáng tạo mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lí, về sản xuất và kinh doanh: đưa kinh nghiệm và kiến thức đến với các dân tộc, các gia đình và mọi người, mở đường cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xu hướng toàn cầu hóa cho phép các nước chậm phát triển thực hiện chủ trương đa phương hóa quan hệ kinh tế cũng như khoa học và công nghệ với thế giới. Trên nền tảng quan hệ kinh tế, các nước chậm phát triển có khả năng chủ động khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của các cường quốc kinh tế trên thế giới.
b, Tác động tiêu cực
Cùng với những mặt tích cực trên, toàn cầu hóa kinh tế có rất nhiều mặt tiêu cực.
Hơn nữa các mặt tiêu cực này ngày càng tăng lên, ảnh hưởng tới tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Những tiêu cực này rất đa dạng, như làm cho hố ngăn cách giàu nghèo tăng lên, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch ngày càng phát triển, làm cho trật tự tiền tệ thế giới bị rối loạn, từ đó làm cho nhiều nước áp dụng những biện pháp chống lại, quay sang thực hiện chủ nghĩa quốc gia hóa của mình, loại toàn cầu hóa ra ngoài. Điển hình nhất là liên minh châu Âu thời gian qua.