Chương IX. VĂN MINH TÂY ÂU TRUNG ĐẠI
9.3. Văn minh Tây Âu thế kỷ XV - XVII
- Tây Âu thời hậu kỳ trung đại (thế kỷ XV - XVII) là giai đoạn:
Chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng suy vong và quan hệ tư bản nảy sinh.Giai đoạn này đưộc mở đầu bằng các cuộc phát kiến lớn về địa lý. Bởi vì phát kiến địa lý mở đường cho sự ra đời của CNTB và mở đầu cho sự ra đời của chủ nghĩa thực dân cận đại.
105
Ðây cũng là thời kỳ chính quyền quân chủ chuyên chế được xây dựng ở một số nước (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,....)
Đây là giai đoạn quá độ, khi mà các đẳng cấp phong kiến cũ đã suy thóai và giai cấp tư sản đã hình thành từ tầng lớp thị dân trung đại, và khi mà giữa hai bên đối địch nhau chưa bên nào thắng bên nào, lúc ấy qúi tộc phong kiến bắt tay với tư sản để tiêu trừ phong kiến cát cứ và phong trào nông dân đang lên mạnh.
Ðây cũng là thời kỳ bắt đầu những cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa sâu sắc (đấu tranh giữa hai ý thức hệ tôn giáo phản động và ý thức hệ tư sản tiến bộ), biểu hiện qua các phong trào cải cách tôn giáo, văn hóa phục hưng.
Trong giai đoạn này, do tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội và tư tưởng mới, pnong trào của nông dân và thị dân nổ ra rất mạnh mẽ, biến thành cuộc chiến tranh nông dân thực sự, mang tính chất hoàn toàn mới là thủ tiêu chế độ phong kiến và vương quyền.
Tất cả những điều đó đã làm cho giai đọan các thế kỷ XVI - XVII, trở thành một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử, khác về chất với giai đoạn phong kiến phát triển trước đó (thế kỷ XI-XV), cũng như với các thế kỷ tiếp theo của chủ nghĩa tư bản công nghiệp (thế kỷ XVIII - XIX ). Quy luật những quan hệ sản xuất tất yếu phải phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất đã biểu hiện rất rõ ràng và đẩy nhanh sự tan rã của chế độ phong kiến.
9.3.2. Phát kiến địa lý và sự tiếp xúc giữa các nền văn minh thế giới cuối thế kỷ XV - XVI
Thế kỉ XV, kinh tế hàng hoá ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị trường tăng cao.
Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới những nguồn vàng bạc, hương liệu của phương Đông. Tầng lớp giàu có cũng tăng lên nên nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm, ngà voi... tăng vọt hẳn lên.
Trong khi đó, con đường tơ lụa mà người phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị đế quốc Thổ Nhĩ Kì theo đạo Hồi chiếm giữ, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển để đến được phương Đông.
Sự tiến bộ về kiến thức địa lí, thiên văn và kĩ thuật hàng hải đã tạo ra những điều kiện vật chất đảm bảo cho những chuyến đi dài ngày trên biển. Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào thuyết Trái đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có bánh lái có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thuỷ thủ dũng cảm.
9.3.2.1. Những cuộc phát kiến địa lí lớn thế kỉ XV - XVI
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước đi đầu trong phong trào phát kiến địa lí. Năm 1415, một trường hàng hải do hoàng tử Henri của Bồ Đào Nha sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào Nha tổ chức những cuộc thám hiểm men theo bờ biển phía tây Châu Phi.
Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do B. Dias chỉ huy đã tới được cực nam Châu Phi, họ đặt tên mũi đất này là mũi Hảo Vọng. Năm 1497, Vasco de Gama (1469 - 1524) đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha khai phá ra con đường biển dẫn tới được Ấn Độ.
106
Người Tây Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo hướng Mặt trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do C. Colombus (1451 - 1506) chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung Châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã tới được Ấn Độ. Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Colombus không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người Châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên America.
Năm 1519 - 1522, F. Magienlan (1480-1521) đã dẫn đầu một đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ biển phía đông của Nam Mĩ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam Châu Mĩ và sang được một đại dương mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm của Magienlan hầu như không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương. F.Magienlan đã bỏ mạng ở Philip- pin do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm của ông cũng chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người bỏ mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì những nguyên nhân khác nhau. Nhưng thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người đi được vòng quanh thế giới, chứng minh tính đúng đắn cho thuyết Quả đất hình cầu.
9.3.2.2. Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lí
Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả thuyết Trái đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa lí, thiên văn, hàng hải, sinh vật học...
Sau những cuộc phát kiến này, sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá trên thế giới diễn ra sôi động hơn bao giờ hết.
Một làn sóng di chuyển dân cư lớn trên thế giới diễn ra trong thế kỉ XVI - XVIII với những dòng người (chủ yếu là người Châu Âu) di chuyển sang khai phá những vùng đất 'mới"
như Châu Mĩ, Châu Úc.
Hoạt đông buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ti buôn bán tầm cỡ quốc tế được thành lập.
Những cuộc phát kiến địa lí này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.
9.3.2.3. Sự tiếp xúc giữa các nền văn minh trong lịch sử 1. Thời cổ đại
Thời cổ đại ở phương Đông và phương Tây đã xuất hiện những nền văn minh rất rực rỡ và ngay từ thời bấy giờ, đã diễn ra sự tiếp xúc văn minh giữa hai khu vực.
Từ khoảng thế kỉ XVI TCN, người Phênixi đã đi lại buôn bán khắp vùng Địa Trung Hải, đã chiếm được nhiều đất đai ở đây làm thuộc địa. Do sự tiếp xúc đó, vào khoảng thế kỉ IX, VIII TCN, người Hy Lạp đã học tập hệ thống chữ cái của Phênixi để đặt ra chữ Hy Lạp và về sau từ chữ Hy Lạp đã phát triển thành chữ Xlavo và chữ Latinh. Thế kỉ VI TCN, một số nhà khoa học Hy Lạp cổ đại như Talet, Pitago đã đi du lịch Lưỡng Hà, Ai Cập, do đó đã tiếp thu được nhiều thành tựu toán học của những nước này, trên cơ sở đó đã phát triển thành định lí về quan hệ giữa ba cạnh cua tam giác vuông.
107
Thế kỉ thứ V TCN, nhà sử học Hy Lạp Hêrôđốt, cũng từng đi du lịch nhiều nơi ở phương Đông, do vậy đã biên soạn được một số tác phẩm về lịch sử của Atxiri, Babilon, Ai Cập.
Những tư liệu lịch sử mà Hêrôđốt, ghi lại được như việc xây dựng Kim tự tháp ở Ai Cập cổ đại là vô cùng quý giá.
Cuối thế kỉ IVTCN, Alếchxăngđrơ Makêđônia chinh phục phương Đông đến tận miền Tây Bắc Ấn Độ. Sự việc này đã để lại một hậu quả khách quan là đã thúc đẩy sự giao lưu về kinh tế văn hóa giữa hai khu vực. Sau khi đế quốc Makêđônia tan rã, trên đất đai mà Alếchxăngđrơ chinh phục được ở Tâu Á và Đông Bắc châu Phi đẫ hình thành các quốc gia như Ai Cập của vương triều Ptoleme, Xini của vương triều Xeelocut, Pécgammum, Páctia, Bắctơria mà lịch sử gọi là những nước Hy Lạp hóa và giai đoạn lịch sử từ khi Alếchxăngđrơ bắt đầu chinh phục phương Đông (năm 334 TCN) gọi là thời kì Hy Lạp hóa.
Trong thời kì này, quan hệ buôn bán giữa phương Đông và phương Tây càng được đẩy mạnh. Trong quá trình chinh phục, Alếchxăngđrơ đã lập được nhiều cứ điểm quân sự. Về sau, một số trong đó đã phát triển thành những thành thị mà trước hết phỉa kể đến thành phố Alếchxăngđrơ ở Ai Cập.
Alếchxăngđrơ là kinh đô của Ai Cập thời vương triều Ptoleme, đồng thời là một thương cảng quốc tế. Ở đây có hải cảng thiết bị tốt, đặc biệt có ngọn tháp hải đăng xây bằng đá hoa trắng cao 12m. Hải đăng thắp suốt đêm, ánh sáng chiếu xa 40km. Tháp hải đăng này được coi là một trong 7 kì quan của thế giới cổ đại.
Alếchxăngđrơ còn là một trung tâm văn hóa quan trọng. Ở đây có một thư viện lớn có gần 500.000 quyển sách chép tay, nhiều học giả các nước đã tập trung về đây nghiên cứu giảng dạy, trong đó tiêu biểu là nhà toán học Ơclit.
Ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp đối với phương Đông còn thể hiện rõ rệt ở mặt nghệ thuật kiến trúc điêu khắc. Thậm chí tại các nước Ấn Độ xa xôi, các tượng Phật được tạo nên trong thời kì muộn hơn một ít cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt của nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp.
Ngược lại, phương Tây đã tiếp thu nhiều kiến thức về toán học và thiên văn học của phương Đông, đặc biệt là phép làm lịch.
Sau khi ở Ai Cập về, năm 45 TCN, người đứng đầu nhà nước La Mã là Xêda ( Caius Julius Ceasar ) đã mời nhà toán học và nhà thiên văn học Ai Cập là Xoodigien (Sosigeenne ) dựa vào lịch Ai Cập để cải cách lịch của La Mã.
Lịch mới của La Mã mang tên Xêda gọi là lịch Giuylieng (Julien), mỗi năm có 365 ngày
4
1, cứ 4 năm nhuận 1 ngày. Lịch Giuylieng được sử dụng phổ biến ở phương Tây trong nhiều
thế kỉ. Tuy nhiên, mỗi năm lịch Giuylieng dài hơn năm mặt trời 11 phút, do đó đến năm 1582, lịch chậm mất 10 ngày.
Để chỉnh lại lịch, giáo hoàng GregoriutXIII ra lệnh cho lịch nhảy 10 ngày: tiếp sau ngày thứ năm 4-10-1582 là ngày thứ sáu 15/10/1582. Lịch mới điều chỉnh này gọi là lịch Gregorieng (Gregorien). Đây là loại lịch thông dụng trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên lịch này nay cũng đã nhanh 3 ngày rồi.
Ngoài khu vực Tây Á và Bắc Phi, phương Tây còn tiếp xúc với văn minh Trung Quốc.
Từ sớm, Trng Quốc đã dệt được nhiều loại lụa đẹp, được cư dân nhiều nước ưa chuộng, do vậy
108
khoảng thế kỉ II TCN, đã hình thành một con đường thông thương xuất phát từ vùng Trường An, kinh đô của Trung Quốc, đi qua Trung Á và Tây Á rồi đến bờ Đông Địa Trung Hải, gọi là con đường tơ lụa. Từ đó, hàng hóa được tiếp tục chuyển sang phía Tây. Xêda thường mặc áo dài bằn lụa Trung Quốc và được coi là hết sức sang trọng.
2. Thời trung đại
Trong thời kì này, qua hoạt động như buôn bán, du lịch, chiến tranh, đặc biệt là do phát triển địa lí, sự tiếp xúc văn minh giữa phương Đông và phương Tây càng phát triển.
- Vai trò của người Arập
Nước A rập bắt đầu thành lập từ thế kỉ VII, nhưng đến thế kỉ VIII, Arập trở thành một đế quốc rộng lớn có lãnh thổ bao gồm đất đai của ba châu Á, Phi, Âu trải dài từ lưu vực sông Ấn đến Tây Ban Nha. Vị trí địa lí đó đã có vai trò quan trọng trong việc làm cho Arập trở thành một trung tâm văn minh quan trọng của thế giới trung đại, đồng thời làm cho Arập trở thành cái cầu nối liền giữa Ấn Độ, Trung Quốc và Tây Âu. Chính lái buôn Arập đã giư vai trò chủ yếu trong việc đưa sang Tây Âu nhiều sản phẩm quý giá của phương Đông như vải, lụa, hương liêu… Đặc biệt, người Arập cũng là kẻ đã truyền sang Tây Âu chữ số Ấn Độ và các phát minh về giấy, nghề in, thuốc súng và la bàn của Trung Quốc. Ngoài ra, lúc đầu, qua việc phiên dịch nhiều tác phẩm của các học giả Hy-La cổ đại, người Arập đã học tập được nhiều thành tựu của văn minh phương Tây, nhưng về sau, Tây Âu đã tiếp thu nhiều kiến thức về đại số học, hóa học, sinh hoc, vật lí học, y học,.. của người Arập. Đến đầu thế kỉ XVIII tác phẩm Nghìn lẻ một đêm cũng được giới thiệu rộng rãi ở Tây Âu.
- Sự tiếp xúc văn minh qua phong trào viễn chinh của quân Thập tự
Do sự hô hào của giáo hoàng La Mã, từ đầu thế kỉ XI đến cuối thế kỉ XIII, các đoàn kị sĩ một số nước Tây Âu, với hình cây thánh giá khâu trên áo, đã tiến hành 8 cuộc viễn chinh sang phương Đông, lịch sử gọi là phong trào Thập tự chinh.
Những cuộc chiến tranh này đem lại rất nhiều thảm họa cho cư dân khu vực phía Đông Địa Trung Hải, nhưng cũng góp phần quan trọng của thế giới lúc bấy giờ.
Vào thời kì này, do sự suy thoái về văn hóa, phương Tây đang lạc hậu hơn phương Đông rất nhiều. Qua phong trào viễn chinh, người Tây Âu đã học tập được một số nghề mới như làm giấy, làm thủy tinh, làm thuốc súng, kĩ thuật tiên tiến trong nghề dệt, nghề luyện kim; học tập được cách trồng một số giống cây mới như lúa, kiều mạch, chanh, dưa hấu,…Việc truyền bá các thứ đó sang phương Tây một phần là do người A rập truyền qua Tây Ban Nha, một phần do quân Thập tự trực tiếp học kinh nghiệm và đưa từ phương Đông về.
Ngoài ra, qua tiếp xúc với phương Đông, giai cấp phong kiến Tây Âu đã học tập được nhiều điều mới mẻ trong cuộc sống hàng ngày như các nghi thức cung đình, những cử chỉ tao nhã, cách giao tiếp lịch sự, cách để tóc , để râu, cách tắm rửa…Thức ăn, quần áo, vũ khí, đồ dùng…giờ đây cũng yêu cầu phải ngon lành, đẹp đẽ và cầu kì hơn. Ví dụ thức ăn phải có thêm gia vị, kiếm thì phải khảm đồng và bao phải khảm vàng và ngà voi…Do vậy, đời sống văn hóa trong xã hội Tây Âu đã có một bước tiến rõ rệt.
- Sự tiếp xúc văn minh qua cuộc hành trình của Macco Polo (Marco Polo)
MáccôPôlô (1254 - 1324 ) là con của một nhà buôn lớn ở Vênêxia. Năm 1275, ông đến Trung Quốc, được Hốt Tất Liệt phong làm quan 16 năm. Khi đi, ông đi bằng đường bộ xuyên
109
qua đất đai của đế quốc Mông Cổ, khi về ông đi bằng đường biển qua Xumatora. Sau khi về nước, ông gia nhập quân đội, bị bắt làm tù binh 2 năm. Trong thời gian này, ông đã kể lại cuộc hành trình của mình cho một người bạn tù ghi chép, về sau tác phẩm ấy được công bố dưới nhan đề Du kí của MáccôPôlô.
Tuy có phần khoác lác, nhưng tác phẩm này đã cung cấp cho người Tây Âu một số hiểu biết về địa lí, con người, sản phẩm, của cải… của các nước phương Đông.
MáccôPôlô đã kể về sự giàu có của Nhật Bản như sau:
“…. Vàng nhiều vô kể, mà không biết, mà không biết dùng đẻ làm gì…Vua có một cung điện lớn, mái lợp bằng vàng ròng…Nền các phòng trong cung thì lát gạch bằng vàng đẻ thay cho các tấm đá…”
Những cuộc phát kiến địa lí cuối thế kỉ XV - XVI mở ra khả năng rộng lớn cho sự tiếp xúc văn hóa giữa các châu lục, hình thành thị trường thế giới và thúc đẩy sự phát triển công thương nghiệp.
9.3.3. Phong trào cải cách tôn giáo và sự ra đời của đạo Tin lành 9.3.3.1. Hoàn cảnh lịch sử
Thời trung đại, giáo hội thiên chúa là một thế lực phong kiến lớn ở TâyÂu. Giáo hội thiên chúa có hệ thống tổ chức rất chặt chẽ. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của giáo hội là Tòa thánh La Mã do giáo hoàng đứng đầu. Ở các nước đều có giáo hội quốc gia trực thuộc Tòa thánh La Mã. Trong hàng giáo phẩm có hệ thống có hệ thống cấp bậc rõ rệt: cao nhất là giáo hoàng, tiếp đến là Hồng y giáo chủ, Tổng giám mục, Giám mục, Linh mục. Trừ chức Giáo hoàng do Hội đồng Hồng y bầu ra, các giáo phẩm khác đều do bổ nhiệm.
Giáo hội có thể lực kinh tế rất hùng hậu. Giáo hội có rất nhiều ruộng đất ở các nước. Trên cơ sở ấy, các nhà thờ và tu viện cũng bóc lột nhân dân như những lãnh chúa phong kiến thế tục. Bên cạnh địa tô, nông dân còn phải nộp thuế 1/10 cho giáo hội. Ngoài ra, giáo hội còn bán ảnh thánh và các thách tích kì lạ, bán giấy miễn tội, tổ chức các lễ hội, khuyến khích tín đồ La Mã hành hương…để tăng thêm thu nhập.
Nhờ có nguồn tài chính dồi dào, giáo hội đã xây dựng nhiều nhà thờ đồ sộ nguy nga và được trang hoàngcác lộng lẫy. Các giáo sĩ, nhất là các giáo sĩ cấp cao thường sống rất giàu sang, hơn thế nữa, họ thường không giữ đung quy chế cấm dục của giáo hội.
Dựa vào uy tín tôn giáo khi mà các quốc vương của nước Tây Âu cũng là những tín đồ, giáo hội Thiên chúa đã chỉ huy được chính quyền thế tục của nhiều nước phương Tây. Từ cuối thế kỉ XI, giáo hoàng Grêgôriut VII (1073 - 1085) đã nêu ra nguyên tắc giáo hội La Mã do chúa trời sáng lập nên tuyệt đối không có sai lầm, quyền uy của giáo hoàng bao trùm cả thế giới, vị trí của giáo hoàng còn có quyền phế truất các vua. Do vậy, một số quốc vương Tây Âu đã phải khuất phục trước thế lực của giáo hoàng.
Giáo hội còn là một thế lực lũng đoạn về tư tưởng, ngăn cản sự phát triển của văn hóa, nhất là của khoa học tự nhiên. Mọi biểu hiện của tư tưởng tiến bộ nhưng trái với kinh thánh đều bị cấm đoán.