Chương XI. VĂN MINH THẾ KỶ XX
11.2. Chiến tranh thế giới và sự phá hoại văn minh nhân loại
Từ thời cổ đại tới nay, con người đã trải qua hàng ngàn cuộc chiến tranh. Một nhà khoa học người Thuỵ Sĩ là Giăng Giắc Baben đã dùng máy tính điện tử để tính toán trong 5550 năm thì có tới 14513 cuộc chiến tranh lớn nhỏ với số người thiệt mạng là 3,6 tỉ người. Đó là những con số làm chúng ta khủng khiếp.
Sang thế kỉ XX, sự thiệt hại ấy lại tăng lên gấp bội do quy mô chiến tranh mở rộng không bao giờ hết, chiến trường bao trùm cùng lúc trê lãnh thổ các quốc gia thuộc nhiều lục địa khác nhau, sự tàn phá và sức hủy diệt của các loại vũ khí, bom đạn tới mức khó lường được hết.
Chiến tranh là một hiện tượng phức tạp. Có cuộc chiến vì nguyên nhân kinh tế, có cuộc chiến lại vì nguyên nhân tôn giáo hay xung đột sắc tộc. Có những cuộc chiến nhằm tranh cướp
146
nhau quyền lợi giữa những cường quốc, có những cuộc chiến để bảo vệ quyền bình đẳng của một dân tộc nhỏ chống lại sự áp bức của các cường quốc lợi dụng thế mạnh của mình để đi ăn cướp. Thực tế đó cho ta thấy cần phân biệt hai loại chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa.
Những cuộc chiến tranh chốn xâm lược, giải phóng dân tộc, chống sự cai trị của ngoại bang là chiến tranh chính nghĩa được nhân dân thế giới ủng hộ. Dù đất nước có bị tàn phá, nhân dân phải chịu đựng hi sinh nhưng nhiều dân tộc vẫn phải đương đầu với chủ nghĩa đế quốc để giành độc lập và tự do. Cuộc chiến tranh của dân tộc Việt Nam 30 năm qua (1945 - 1975) để bảo vệ độc lập của dân tộc mình là một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Ngược lại, cuộc chiến tranh xâm chiếm và giành giật thuộc địa giữa các nước đế quốc, nhằm giữ ngôi bá chủ thế giới, nhằm bành trướng lãnh thổ, xâm phạm chủ quyền nước khác… mang tính phi nghĩa hết sức tàn bạo.
Chiến tranh thế giới trong thế kỉ XX là những cuộc chiến tranh ác liệt nhất trong lịch sử loài người.
Sức mạnh của khoa học kĩ thuật thế kỉ XX nếu được sử dụng phục vụ loài người thì nó sẽ đem lại những kết quả vĩ đại, nhưng nếu đem sức mạnh đó để phục vụ chiến tranh nó cũng gây ra những hậu quả khủng khiếp. Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) lần đầu tiên xuất hiện xe tăng và máy bay. Các vũ khí và phương tiện quân sự được cải tiến không ngừng, đến Chiến tranh thế giới thứ hai đã ra đời các loại xe tăng thiết giáp nặng hơn nhưng cơ động hơn, các loại máy bay bay cao hơn, xa hơn và mang nặng hơn: lần đầu tiên xuất hiện rađa, tên lửa và nhất là giai đoạn cuối của chiến tranh đã dùng bom nguyên tử. Thế giới bị tàn phá khủng khiếp
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất: 8 triệu binh sĩ bị chết, 15 triệu người bị thương nặng, trong đó 7 triệu người bị tàn phế suốt đời , đa số những người này lại đang ở độ tuổi thanh xuân, lực lượng lao động chính. Chiến tranh còn gây ra nạn đói, bệnh tật và dân thường cũng phải chịu thảm hoạ . Nếu kể cả dân thường thì chiến tranh thế giới thứ nhất đã gây thương vong cho khoảng 33 triệu người kể cả binh lính và dân thường. Thiệt hại về vật chất khoảng 260 tỉ USD. Chi phí quân sự trực tiếp của các nước tham chiến khoảng 208 tỉ USD. Mức tăng trưởng của Châu Âu bị chiến tranh thế giới thứ nhất làm chậm lại khoảng 8 năm.
Hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai còn lớn hơn nhiều: Hơn 60 triệu người chết trong đó: Liên Xô 27 triệu, Trung Quốc 13,5 triệu, Ba Lan 6 triệu, Đức 7,3 triệu, Nhật 2,1 triệu, Nam Tư 1,6 triệu..., 6 triệu người Do Thái bị bọn phát xít Đức tàn sát.
Về vật chất, các nước tham chiến đã chi khoảng 1384 tỉ USD. Thiệt hại do chiến tranh tàn phá toàn thế giới thì không tính nổi. Riêng Liên Xô 1710 thành phố, 70000 làng, 32000 nhà máy bị tàn phá hoặc thiêu huỷ. Ở Nhật, 70 thành phố bị không quân Mĩ oanh kích trong đó có 2 thành phố bị ném bom nguyên tử.
Những giá trị của văn minh loài người bị chà đạp thô bạo. Đó là những tội ác của bọn phát xít, chúng không chỉ chiếm đóng lãnh thổ, cướp đoạt tài nguyên mà còn chà đạp lên những quyền cơ bản, những giá trị thiêng liêng của các dân tộc và nhân phẩm danh dự của con người.
Bọn quốc xã đã tàn sát hơn 6 triệu người Do Thái và kêu gọi tiêu diệt người Xlavơ: “Nếu chúng ta muốn thành lập Đế chế Đức vĩ đại, trước hết phải đuổi và tiêu diệt sạch các dân tộc Xlavơ: người Nga, Ba Lan, Séc, Xlôvaki, Bungari, Ucraina, Bêlarut. Không có lí do gì để
147
không làm được việc đó”. Hơn 6 triệu người Ba Lan - tức là 1/5 dân số nước này-đã bị tàn sát bởi những lời kêu gào đó của Hitle. Chúng còn lập ra các nhà tù, các trại tập trung và các lò thiêu người bằng hơi ngạt như ở Bunkhenvan, Đachau, Biêccơnô, Ausơvít… để đầy đọa con người theo lối trung cổ và tàn sát họ bằng những kĩ thuật hiện đại…
Ở châu Á, bọn phát xít còn tàn sát và gây ra nạn đói khủng khiếp với bao cái chết thê thảm. Chỉ trong một tháng, chỉ trong một tháng, hơn 30 vạn dân lành tay không tấc sắt đã bị giết ở Nam Kinh (Trung Quốc). Hai triệu người Việt Nam bị chết đói dưới ách thống trị của Nhật-Pháp trong những năm chiến tranh.
Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc chưa được bao lâu, các dân tộc lại phải trải qua tình trạng đầy căng thẳng của Chiến tranh lạnh với những cuộc chạy đua vũ trang cực kì tốn kém sức người, sức của. Một lẫn nữa, những tiến bộ khoa học-kĩ thuật hiện đại nhất của văn minh nhân loại, những nguồn tài nguyên và tiền của khổng lồ lại ném vào việc tìm tòi, chế tạo những loại vũ khí và phương tiện chiến tranh có sức tàn phá, hủy diệt chưa từng thấy.
Sau gần nửa thế kỉ chạy đua vũ trang tốn kém và mệt mỏi, các dân tộc đã rút ra được nhiều bài học. Nền văn minh của nhân loại, mối quan hệ quốc tế giữa các dân tộc chỉ có thể phát triển tốt đẹp nếu dựa trên phương thức cùng nhau chung sống hòa bình, hợp tác phát triển và cạnh tranh trong kinh tế, bình đẳng và cùng có lợi.
Ngày nay, Chiến tranh lạnh đã kết thúc, hòa bình thế giới được củng cố. Nhưng do nhiều nguyên nhân như những tranh chấp về sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ … hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa nghiêm trọng, thậm chí xung đột quân sự, nội chiến đẫm máu kéo dài nhiều năm ở nhiều quốc gia. Tại những nơi đó, dân chúng lại đổ máu, những giá trị văn minh lại bị hủy diệt không thương tiếc.
Sau gần 4 năm nội chiến, Bôxnia từ một nước cộng hòa khá phát triển của Liên bang Nam Tư đã trở thành một trong những nước nghèo nhất châu Âu, khoảng 35% đường sá, 40%
cầu cống bị tàn phá và nguồn điện trong nước, thậm chí không cung cấp đủ cho các bệnh viện và trạm bơm.
Ở châu Phi-lục địa không ổn định nhất trên hành tinh-trong bốn thập kỉ qua đã xảy ra tới 33 cuộc xung đột vũ trang và nội chiến làm chết 7 triệu người và 6,7 triệu người phải rời bỏ xứ sở, tị nạn ở nước khác. Dòng người lang thang trôi dạt ấy chiếm 43% tổng số người tị nạn trên thế giới.
Sau nhiều năm nội chiến liên miên giữa các phe phái ở Ápganixtan, Bảo tang quốc gia Cabun đã bị đổ nát và bị cướp phá tới mức báo chí thế giới gọi là “tội ác của thế kỉ XX”, 90%
sưu tập của Bảo tang bị mất với nhiều loại hiện vật được coi là cổ nhất của thế giới. Bảo tàng quốc gia Cabun là một trong những bảo tàng phong phú nhất toàn vùng, bao gồm những chứng tích của 50 000 năm lịch sử Ápganixtan và Trung Á. Nhà khảo cổ học hàng đầu và sử gia người Pakixtan là Hassan Dani cho rằng, Bảo tàng có những sưu tập rất giá trị về ngà voi, tượng, tranh, tiền vệ, vàng, đồ gốm, vũ khí, quần áo từ thời tiền sử qua các nền văn minh Bactrian, Kushan và Ghandara, rồi đến giai đoạn các đạo Hinđu, Phật giáo và Hồi giáo…
Những cuộc xung đột vùng Trung Đông và các nước A rập, nhiều cuộc nội chiến liên miên tại nhiều nơi, nạn diệt chủng của chế độ Khơme đỏ, những vụ tranh chấp biên giới… để lại những hậu quả nặng nề về sinh mạng, tài sản và tinh thần của người dân.
148
“Chiến tranh lạnh” chấm dứt đã 20 năm nhưng ở nhiều nơi vẫn chưa ngưng tiếng súng.
An ninh của toàn nhân loại vẫn còn luôn bị đe doạ bởi một cuộc chiến tranh với đủ loại vũ khí giết người hàng loạt. Bảo vệ hoà bình, bảo vệ nền văn minh vẫn luôn là mục tiêu chung của nhân dân toàn thế giới.