5.1 Kết luận
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về công việc kê khai thuế tại công ty TNHH Tiếp Vận Tam Long tôi có những nhận định sau :
5.1.1. Thuế GTGT
Hàng tháng kế toán tổng hợp hóa đơn đầu ra, đầu vào để kê khai. Trong quá trình thực hiện việc kê khai thì có đầy đủ các mẫu tờ khai từ đó dẫn đến việc kê khai dễ dàng hơn, làm nhanh hơn.
Khi kê khai bảng hàng hóa bán ra mẫu 01-1/GTGT chỉ dựa vào những hóa đơn có đầy đủ tên công ty, mã số thuế, địa chỉ phải đúng mới kê khai, và khi lập được sẽ liệt kê những mặt hàng có cùng thuế suất từ đó tạo thuận lợi cho việc kê khai thuế.
Khi kê khai bảng kê hóa đơn mua vào 01-2/ GTGT thì phải cẩn thận do sai sót nên tháng 4 và tháng 10 công ty đã kê khai nhầm (sai địa chỉ và MST) khi phát hiện sai sót đên tháng 8 công ty đã lập bảng giải trình bổ sung, điều chỉnh và nộp tiền phạt điều này nói lên công ty chấp hành đúng luật pháp theo quy định của nhà nước. Còn những hóa đơn thông thường công ty không kê khai do phần này cơ quan thuế không yêu cầu lập báo cáo. Những hóa đơn thông thường thì tách riêng ra để theo dõi riêng do không có ý nghĩa trong kê khai tính thuế.
Mỗi tháng công ty nộp nhiều thuế GTGT chứng tỏ công ty bán hàng hóa và dịch vụ nhiều doanh thu nhiều. Và nói lên công tác quản lý hóa đơn đầu vào đầu ra chặt chẽ để có thể kê khai dễ dàng, thuận tiện và nộp số thuế đúng theo quy định của nhà nước khi kê khai hàng tháng.
65
kê khai thuế TNDN từng quý chỉ mang tính chất tạm nộp và hết năm tài chính công ty làm báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh. Từ đó tổng kết số thuế phải nộp cho nhà nước qua bảng tự quyết toán thuế TNDN. Nếu số thuế tạm nộp lớn hơn số thuế phải nộp cả năm thì doanh nghiệp chuyển phần chênh lệch sang năm sau để khấu trừ. Nếu vậy việc kê khai tạm tính cho phép sai lệch mà không vi phạm pháp luật.
Nhưng do những chính sách của mấy năm về trước thì việc kê khai thuế TNDN tạm tính là doanh nghiệp tự ước lượng cả năm. Qua 6 tháng đầu năm doanh nghiệp hạch toán chi phí và doanh thu phát sinh có sự chênh lệch lớn thì doanh nghiệp làm lại tạm tính của 2 quý trước. Vì thế quá trình kê khai thuế TNDN của công ty có thể kê khai không sát với thực tế. Ngày nay có nhiều chính sách nhà nước quan tâm đến doanh nghiệp giúp doanh nghiệp và đi sát với thực tế. Vì thế công tác kê khai thuế TNDN tạm tính dựa vào những doanh thu và chi phí phát sinh trong 3 tháng để kê khai. Tuy không đúng hoàn toàn nhưng cũng phần nào phản ánh thực tế.
Đến cuối năm khi doanh nghiệp dựa vào bảng báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của từng quý rồi tổng hợp lên bảng báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của năm. Qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh ta thấy được doanh thu từ việc bán hàng ít đi như năm 2007 (44.255.226.125) đồng đến khi năm 2008 giảm xuống còn (2.117.142.857 đồng) trong khi đó doanh thu cung cấp dịch vụ của năm 2008 (50.267.553.351 đồng) trong khi đó năm 2007 chỉ có (33.729.809 đồng) điều này nói lên công ty ngày càng có chuyển hướng làm dịch vụ nhiều hơn đáp ứng với nền kinh tế thị trường cùng với xu thế hội nhập của đất nước khi gia nhập WTO. Không chỉ xét đến doanh thu phát sinh mà còn tính đến chi phí phát sinh của doanh nghiệp. Qua tìm hiểu được biết công ty có các chi phí đều hợp lý, hợp lệ. Chi phí khấu hao tài sản cố định chỉ cho phép khấu hao tài sản cố định giá trị trên 10 triệu có thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên có chứng từ hợp lệ.
Chi phí dịch vụ mua ngoài thì công ty căn cứ khi có hóa đơn, chứng từ có đầy đủ mã số thuế và giá mà công ty mua đúng với giá của thị trường.
Chi phí tiền lương chia làm hai trường hợp:
Thứ nhất là đối với lao động làm dài hạn thì công ty khi nhận người lao động vào phải ký hợp đồng và công ty có trách nhiệm nộp bảo hiểm là 25% theo mức lương
căn bản và 2% đối với bảo hiểm thất nghiệp. Công ty chấp hành đủ những chính sách do nhà nước quy định và trong hợp đồng lao động còn có các khoản phụ cấp khác.
Thứ hai đối với những lao động làm việc không ổn định mang tính chất thời vụ thì công ty vẫn làm đăng ký hợp đồng nhưng không trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Chi phí khác bằng tiền : hàng năm công ty vẫn trích một khoản tiền chi trang phục và chi phí lãi vay, chi phí chuyển tiền thanh khoản áp dụng đúng theo quy định của nhà nước.
Qua đây ta nhận thấy lợi nhuận của năm 2008 tăng nhanh so với năm 2007. Mà số thuế của năm 2008 phải nộp cao hơn năm hơn 2008 khẳng định công ty phát triển mạnh ngày càng được nhiều khách hàng tin cậy đã tìm đến. Có chỗ đứng trên thị trường khi mà nền kinh tế đang có nguy cơ khủng hoảng vào những tháng cuối năm 2008.
Tập thể cán bộ nhân viên cố gắng củng cố sức mạnh của mình để thích ứng với thị trường có nhiều biến động về khủng hoảng tài chính. Tạo niềm tin cho khách hàng khi đến công ty trao đổi hàng hóa.
Sau một thời gian thực tập ở công ty tôi nhận thấy việc đầu tư vào dịch vụ đạt hiệu quả cao bên cạnh đó tình hình thực hiện luật thuế chấp hành đầy đủ theo quy định của nhà nước. Tăng nguồn ngân sách cho nhà nước từ đó thúc đẩy nền kinh tế xã hội, phúc lợi xã hội cao hơn. Đồng thời nhà nước có những chính sách ưu đãi về thuế giúp doanh nghiệp kích thích đầu tư. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nhà nước đã có chính sách tránh để doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản.
Tuy nhiên điều đáng lưu ý ở đây là nhà nước luôn thay đổi về việc kê khai nhưng phần mềm hỗ kê khai còn sai sót chờ thay đổi rất mất thời gian. Những thông tư hướng dẫn quá nhanh doanh nghiệp không đáp ứng kịp.
Trong quá trình kê khai thuế GTGT doanh nghiệp còn nhầm lẫn dẫn đến tình trạng doanh nghiệp phải nộp tiền phạt điều này dẫn đến thất thoát nguồn vốn của công ty. Để hạn chế điều này kế toán cần phải kiểm soát thật chặt chẽ tránh tình trạng kê
67
Trong tháng việc liệt kê các doanh thu và chi phí phát sinh đầy đủ tránh tình trạng thiếu sót từ đó việc kê khai tạm tính sát với thực tế tránh nộp thừa làm ảnh hưởng đến nguồn vốn của công ty.
Và tình trạng của công ty chưa thực hiện nộp thuế theo quy định của nhà nước.
5.2 Kiến nghị
5.2.1. Đối với nhà nước
: để thuận lợi cho công việc kê khai thuế phải nộp của công ty, nhà nước cần mở các lớp hướng dẫn phổ biến kịp thời, tuyên truyền về các thông tư, nghị định cụ thể để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận và hiểu rõ hơn tránh tình trạng kê khai sai sót.
5.2.2. Đối với công ty :
Công ty cử nhân viên đi tập huấn để tìm hiểu về luật thuế và những lỗi mình gặp để kịp thời giải quyết.
Bộ phận kế toán thường xuyên cập nhật thông tin để có thể áp dụng những hướng dẫn ưu đãi mà nhà nước ban hành giúp đỡ doanh nghiệp trong thời kỳ khó khăn.
Bộ phận kế toán thường xuyên đôn đốc những giấy tờ trong tháng còn kê khai thiếu sót để thuận tiện trong hạch toán thuế TNDN tạm tính của các quý.
Trong doanh nghiệp không có phân biệt giữa chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. công ty cần phân biệt rõ ràng chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp để xác định hiệu quả của từng bộ phận từ đó có những định hướng công ty phát triển hơn.
Đối với bộ phận bán hàng và cung cấp dịch vụ thì công ty nên tập trung vào dịch vụ nhiều hơn điều này sẽ đưa công ty phát triển đáp ứng trong nền kinh tế thị trường. Phải nâng cao trình độ của nhân viên xuất nhập khẩu bằng cách cho đi học để bổ sung kiến thức về xuất nhập khẩu.
Đối với bộ phận Marketing thì yêu cầu phải nhân viên giỏi có trình độ chuyên môn cao, am hiểu về nhu cầu của khách hàng từ đó có thể tìm được nhiều khách hàng mới cho công ty. Điều này dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát triển mà chủ yếu là cung cấp dịch vụ lợi nhuận tăng tăng nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước đưa ngân sách nhà nước tăng lên góp phần nào cùng đất nước phát triển.
Hạn chế tình trạng công ty nộp thuế chậm theo quy định của nhà nước.
Bộ phận bán được hàng cũng nên thường xuyên đôn đốc khách hàng, làm việc thỏa thuận với khách hàng chi trả nợ để công ty có nguồn vốn lưu chuyển. Và nộp thuế đúng theo quy định của nhà nước.
Đối với những khách hàng cũ của công ty thì công ty có những chính sách ưu đãi tạo điều kiện cho khách hàng khi đến với công ty có những ấn tượng tốt điều này sẽ rất quan trọng cho sự phát triển công ty có chỗ đứng trên thị trường thật vững chắc.
Khi đất nước gia nhập WTO hàng hóa nước ngoài sẽ qua lại nhiều điều này sẽ là cơ hội tốt cho công ty phát triển về lĩnh vực xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó còn nhiều thách thức mới các thành viên trong công ty phát huy hết năng lực của mình để đưa công ty lên tầm cao mới có thể cạnh tranh với các công ty khác.
69