Dự phòng rủi ro tín dụng

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại việt nam (Trang 25)

Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD = Dự phòng RRTD trích lập x 100% Tổng dư nợ tín dụng

Theo Ashour M.O (2011), dự phòng rủi ro tín dụng là các khoản chi phí trích trước tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng nhằm bù đắp tổn thất phát sinh từ các khoản vay không thu hồi được. Các khoản dự phòng rủi ro tín dụng là các khoản chi phí trích trước chính của ngân hàng (Laeven, L. and Majnoni, G., 2003)

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), “Dự phòng rủi ro là là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dự phòng rủi ro gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung”.

Trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng, dự phòng là một khoản mục thuộc tài sản và làm giảm giá trị của tài sản có, nhằm phản ánh sự suy giảm của tài sản trước những tổn thất có khả năng xảy ra. Trong khi đó, trong bảng kết quả kinh doanh, dự phòng là một khoản chi phí phi tiền mặt, được ghi nhận làm giảm lợi nhuận/vốn chủ sở hữu của ngân hàng (Ashour M.O, 2011)

Như vậy, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là quá trình ngân hàng nhận diện và đánh giá rủi ro của khoản vay từ đó ước lượng khả năng tổn thất tài sản của ngân hàng. Khi một khoản nợ của khách hàng được xác định có khả năng rủi ro không thu hồi được một phần hay toàn bộ, ngân hàng tạo ra nguồn dự trữ để trang trải cho những tổn thất tín dụng. Nếu ngân hàng có danh mục cho vay càng rủi ro thì tỉ lệ này càng cao.

2.1.3.6. Tỷ trọng dƣ nợ tín dụng

Tỷ trọng dư nợ tín dụng = Tổng dư nợ x 100% Tổng tài sản có

Hệ số này cho thấy tỷ trọng của các khoản mục tín dụng trong tổng tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận càng lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng cao.

Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành ba nhóm: - Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng.

- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.

- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Thông thường, đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng .

2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thƣơng mại 2.2.1. Nhóm yếu tố kinh tế vĩ mô

2.2.1.1. Tăng trƣởng GDP

Một trong những yếu tố khá phổ biến dẫn đến rủi ro tín dụng là xuất phát từ việc người vay gặp phải những thay đổi khó lường của môi trường kinh doanh, ảnh

hưởng của chu kỳ kinh tế. Chu kỳ kinh tế là sự biến động lên xuống của các hoạt động kinh tế gây ra bởi các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế. Thông thường, chu kỳ kinh tế được đo lường bằng cách xem xét sự biến động của tăng trưởng GDP thực (hay còn gọi là tăng trưởng kinh tế) xoay quanh xu hướng dài hạn của chính nó. Trong điều kiện không có các cú sốc, tăng trưởng kinh tế sẽ trùng với đường dài hạn này. Các cú sốc, ví dụ như cú sốc cầu đầu tư, cú sốc cầu hàng hoá xuất khẩu, cú sốc về giá nguyên vật liệu đầu vào, tiến bộ công nghệ, thiên tai,... sẽ làm cho tăng trưởng của nền kinh tế cao hơn hoặc thấp hơn so với đường xu hướng dài hạn. Trong giai đoạn tăng trưởng cao, các doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi nên dễ thu hồi nợ vay và rủi ro tín dụng xảy ra là thấp. Ngược lại, vào thời kỳ suy thoái, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn nên các khoản vay dễ xảy ra rủi ro đặc biệt là những khoản vay trung dài hạn.

Nghiên cứu của Chaibi & Ftiti (2014) cho rằng mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng GDP và rủi ro rín dụng của các ngân hàng phụ thuộc vào các giai đoạn của chu kỳ kinh tế. Cụ thể trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế các doanh nghiệp, cá nhân có đầy đủ khả năng để thanh toán các khoản nợ, tuy nhiên trong giai đoạn suy thoái khả năng trả nợ bị sụt giảm. Kết quả nghiên cứu cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP có mối quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu.

2.2.1.2. Lạm phát

Khi lạm phát tăng cao dẫn đến hệ quả kéo theo là lãi suất tăng lên, thị trường mua bán bị giảm sút do giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao so với giá trị thực, thu nhập của doanh nghiệp và cá nhân vay vốn giảm, các khoản vay có vấn đề tăng. Ngược lại, khi lạm phát được kiểm soát, giá cả thị trường hàng hóa ở mức hợp lý. Doanh nghiệp, cá nhân dễ dàng hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ vay của mình làm nợ xấu giảm xuống (Fofack & Hippolyte, 2005).

Tác động của lạm phát đến rủi ro tín dụng còn thể hiện qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung ương. Khi lạm phát cao, NHTW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh toán của ngân hàng bị thu hẹp (do hệ số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm dẫn đến lãi

suất tăng, bao gồm lãi suất vay. Điều này có thể làm tăng áp lực thanh toán nợ của những khách hàng vay hiện tại cũng như khả năng xảy ra rủi ro tín dụng tăng cao hơn. Ngược lại nếu lạm phát hạ thấp, Ngân hàng Trung ương giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tăng khả năng tạo tiền, cung về tín dụng cũng tăng lên và lãi suất vay lúc này giảm. Khách hàng không bị áp lực số tiền lãi thanh toán cho ngân hàng, xác suất xảy ra rủi ro tín dụng giảm.

2.2.1.3. Thất nghiệp

Kinh tế suy thoái, sản xuất đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng dẫn đến tình trạng mất khả năng trả nợ của doanh nghiệp, rủi ro tín dụng gia tăng. Ngược lại, trong giai đoạn bùng nổ kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp được cải thiện đáng kể, tín dụng tăng trưởng mạnh, nợ xấu có xu hướng giảm, rủi ro tín dụng có xu hướng giảm.

Nghiên cứu Ahlem Selma, Messai & Fathi Jouini (2013) áp dụng phương pháp dữ liệu bảng để phát hiện các yếu tố quyết định nợ xấu với số liệu của 85 ngân hàng tại 3 quốc gia là Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha từ năm 2004 đến 2008 đều cho thấy yếu tố tỷ lệ thất nghiệp tác động cùng chiều với rủi ro tín dụng

2.2.2. Nhóm yếu tố thuộc về ngân hàng 2.2.2.1. Tăng trƣởng tín dụng 2.2.2.1. Tăng trƣởng tín dụng

Tăng trưởng tín dụng là sự gia tăng giá trị các khoản vay qua các năm. Tăng trưởng tín dụng là một yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng (Kohler, 2012). Bikker và các cộng sự (2005) đã tìm thấy ảnh hưởng tích cực của tăng trưởng tín dụng lên rủi ro tín dụng. Khi tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ nợ xấu sẽ giảm. Các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay để sản xuất kinh doanh hiệu quả, đến hạn thanh toán các khoản nợ ngân hàng doanh nghiệp sẽ dễ thanh toán hơn dẫn đến tỷ lệ nợ xấu sẽ giảm. Nếu tăng trưởng tín dụng tăng cao quá mức và các dòng vốn tín dụng này không đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà chảy vào các dòng tiền đầu cơ như bất động sản, vàng, ngoại tệ,....sẽ gây ra những bất ổn thị trường trong nền kinh tế và sẽ dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng do doanh nghiệp không có khả năng chi trả những khoản nợ đến hạn dẫn đến rủi ro tín dụng sẽ tăng lên.

2.2.2.2. Quy mô ngân hàng

Quy mô ngân hàng là một trong những yếu tố được nhiều nghiên cứu trước đây lựa chọn và đưa vào mô hình. Tổng tài sản của ngân hàng có thể thể hiện được quy mô ngân hàng. Về mặt lý thuyết, các ngân hàng có quy mô lớn có nhiều cơ hội đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ cung ứng cho thị trường, do đó có thể giảm các rủi ro từ hoạt động của ngân hàng trong đó có rủi ro tín dụng. Khi nói về quy mô ngân hàng có thể xem xét đến lý thuyết “Too big to fail”. Lý thuyết đề cập việc tổ chức có quy mô hoạt động rộng lớn và liên kết với nhiều thành phần kinh tế khác, có tầm ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế của một quốc gia, một khi có sự đổ vỡ hay phá sản xảy ra dù vì lý do gì, chính phủ nước đó sẽ không để tổ chức đó sụp đổ bằng những biện pháp như hỗ trợ vốn, trả nợ, sáp nhập hoặc chính nhà nước sẽ mua lại tổ đó nhằm bảo đảm hoạt động của tổ chức được duy trì một cách bình thường. Điều này có thể hiển việc tăng quy mô ngân hàng đến mức có ảnh hưởng lớn đến nhiều thành phần trong nền kinh tế sẽ giảm và vượt qua những hậu quả nghiêm trọng từ rủi ro tín dụng tăng cao quá mức bằng những biện pháp hỗ trợ của chính phủ.

Nghiên cứu của Somandevi Thiagarajan và các cộng sự (2011) về các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng ở Ấn Độ trong giai đoạn 2001-2010 đã chỉ ra có mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô ngân hàng và rủi ro tín dụng ngân hàng.

2.3. Lƣợc khảo các nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây về các yếu tố ảnh hƣởng đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng thƣơng mại

Phần lớn các nghiên cứu trước đây trên đều sử dụng biến nợ xấu là biến phụ thuộc trong mô hình để nói về rủi ro tín dụng, tác giả cũng nhận thấy tỷ lệ nợ xấu có đầy đủ các tố chất cần thiết và đặc trưng hơn hẳn các chỉ tiêu đo lường còn lại, điều đó phù hợp với các đối tượng của các bài nghiên cứu trước đây. Do đó, phần lược khảo sau đây ngoài việc tồng hợp các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng, có đề cập thêm các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu, nhằm làm dẫn chứng thêm cho việc lựa chọn các biến của mô hình trong chương 3.

- Đối với yếu tố tăng trưởng tín dụng tác động đến rủi ro tín dụng ở kết quả nghiên cứu của Clair (1992) cho thấy ban đầu tăng trưởng tín dụng sẽ tác động làm cho rủi ro tín dụng giảm nhưng sẽ làm tăng rủi ro tín dụng sau một độ trễ nhất định. Nghiên cứu của Clair (1992) thực hiện hồi quy biến phụ thuộc lần lượt là tỷ lệ nợ xóa sổ và tỷ lệ nợ xấu. Nghiên cứu của Clair không xem xét tác động của các yếu tố liên quan đến môi trường kinh tế vĩ mô. Mô hình hồi quy có dạng mô hình trễ phân phối với biến tăng trưởng tín dụng lấy 3 biến ở 3 độ trễ liên tiếp. Tác giả thực hiện hồi quy dữ liệu bảng được thu thập thông tin từ các Ngân hàng ở Texas từ năm 1984 đến năm 1990, với số lượng quan sát lớn (11.903 quan sát) để chạy mô hình. Nghiên cứu của Lis và cộng sự (2001) cho thấy tác động cùng chiều của tăng trưởng tín dụng đối với rủi ro tín dụng. Mô hình trong nghiên cứu của Lis và cộng sự (2001) là mô hình động ở dạng tự hồi quy và phân phối trễ với độ trễ là 2 và 3 năm đối với một số biến độc lập. Dữ liệu nghiên cứu thu thập được trong thời gian 10 năm từ năm 1988 đến 1997, số lượng quan sát tác giả thu thập được để thực hiện ước lượng mô hình lên đến 934 quan sát. Mức độ tác động của tăng trưởng tín dụng đến rủi ro tín dụng cũng thể hiện trong nghiên cứu của Abhiman Das và Saibal Ghosh (2007).

- Tác động ngược chiều của quy mô ngân hàng đến rủi ro tín dụng có thể thấy trong kết quả nghiên cứu của Hu và cộng sự, (2004). Tác giả đã sử dụng dữ liệu của 40 NHTM Đài Loan trong giai đoạn 1996 - 1999. Mô hình được đưa vào bài nghiên cứu là mô hình phi tuyến tính ở dạng bậc 2. Biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ xấu của các NHTM, biến độc lập bao gồm tỷ lệ sở hữu nhà nước, quy mô ngân hàng, chỉ số đa dạng hóa. Với phương pháp chạy dữ liệu là phương bình phương tối thiểu OLS, phương pháp hiệu ứng cố định FE và phương pháp tác động ngẫu nhiên RE. Một số thử nghiệm thống kê được thực hiện để lựa chọn phương pháp tốt nhất để thực hiện phân tích thực nghiệm.

- Đối với yếu tố tăng trưởng GDP tác động đến rủi ro tín dụng ở kết quả nghiên cứu của Lis và cộng sự (2001); Bofondi và Ropele (2011); Louzis và các cộng sự (2012) tác động ngược chiều đối với rủi ro tín dụng. Ở nghiên cứu

Abhiman Das và Saibal Ghosh (2007) cho thấy tác động của tăng trưởng GPD đến rủi ro tín dụng. Riêng kết quả nghiên cứu của Ahlem Selma, Messai và Fathi Jouini (2013) tác động cùng chiều với rủi ro tín dụng.

- Lạm phát có tác động cùng chiều với rủi ro tín dụng trong kết quả nghiên cứu của Bofondi và Ropele (2011)- nghiên cứu kiểm tra những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro khoản vay của ngân hàng ở Italia giai đoạn quý 1 năm 1990 đến quý 2 năm 2010. Nghiên cứu này sử dụng phương trình hồi quy đơn chuỗi dữ liệu theo thời gian; nghiên cứu Louzis và các cộng sự (2012); Ahlem Selma, Messai và Fathi Jouini (2013).

- Trong kết quả nghiên cứu của Bofondi và Ropele (2011); Louzis và các cộng sự (2012) sử dụng dữ liệu bảng với số liệu thu thập theo quý trong khoảng thời gian từ quý I năm 2003 đến quý III năm 2009, số lượng ngân hàng thu thập chỉ được 9 NHTM ở Hy Lạp; Ahlem Selma, Messai và Fathi Jouini (2013) áp dụng phương pháp dữ liệu bảng để phát hiện các yếu tố quyết định nợ xấu với số liệu của 85 ngân hàng tại 3 quốc gia là Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha từ năm 2004 đến 2008 đều cho thấy yếu tố tỷ lệ thất nghiệp tác động cùng chiều với rủi ro tín dụng.

Kết luận chƣơng 2

Trong chương 2, nghiên cứu đã trình bày tổng quan lý thuyết về tín dụng và rủi ro tín dụng tại NHTM. Trong thực tế, các NHTM sử dụng nhiều chỉ tiêu quan trọng để đánh giá rủi ro tín dụng, chứng tỏ được mối quan tâm đặc biệt của các nhà quản trị ngân hàng về loại rủi ro này. Từ đó thấy được, rủi ro tín dụng có ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế, một phần cũng bởi vì nguyên nhân làm phát sinh rủi ro tín dụng có phạm vi khá rộng và đa dạng trong khi hậu quả của nó để lại cũng tác động sâu rộng đến hầu hết các đối tượng trong nền kinh tế. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đã lược khảo một số nghiên cứu thực nghiệm trước đây về các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại NHTM. Các nghiên cứu đã chỉ ra được mối tương quan giữa các yếu tố như tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, tăng trưởng GDP, lạm phát, thất nghiệp với rủi ro tín dụng. Các nghiên cứu này sẽ là cơ sở để nghiên cứu phân tích thực trạng rủi ro tín dụng tại các

NHTM Việt Nam ở chương 4, xây dựng mô hình nghiên cứu ở chương 3 và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam thông quan thảo luận các kết quả hồi quy mô hình ở chương 4.

Một phần của tài liệu (LUẬN văn THẠC sĩ) các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại việt nam (Trang 25)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(96 trang)