TRUNG HỌC CƠ SỞ
2.2.1. Quản lý tài chính trong lĩnh vực giáo dục đào tạo ở một số nước trên thế giới
- Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Ngay từ cuối thập kỷ 60, Hàn Quốc đã xác định phương châm: "Giáo dục - đào tạo là chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai" nên đất nước này đã thi hành một loạt các biện pháp và chính sách có hiệu lực để thúc đẩy giáo dục và đào tạo, đẩy nhanh tốc độ ứng dụng khoa học kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tài. Chính vì vậy, nền kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, thu nhập bình quân đầu người khá (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
Để đạt được những thành quả về tăng trưởng kinh tế, một trong những biện pháp được Chính phủ sử dụng là cải cách hệ thống giáo dục, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, bồi dưỡng nhân tài phát triển các ngành sản xuất với khoa học kỹ thuật cao, do đó họ không ngừng tăng đầu tư cho giáo dục và nghiên cứu khoa học. Từ giữa thập kỷ 60, trong nhiều năm liền tốc độ tăng của ngân sách giáo dục đã vượt quá tốc độ tăng của GDP. Căn cứ vào thống kê của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ kinh phí giáo dục trong tổng chi ngân sách của Chính phủ Hàn Quốc năm 1985 đứng ở vị trí 11 trong số 91 nước và khu vực mà Ngân hàng thế giới đã tiến hành điều tra (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
Việc lập kế hoạch cấp phát Ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo theo một quy trình khá chặt chẽ, được tính toán chi tiết trên cơ sở cân đối tất cả nguồn thu và các khoản chi. Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm lập kế hoạch chi và giám sát tài chính đối với mọi nội dung đầu tư của giáo dục và đào tạo. Thông thường Bộ Tài chính ra một văn kiện quan trọng, trong đó nêu
ra các mục tiêu giới hạn, thứ tự ưu tiên dựa trên chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo, đồng thời đưa ra các giải pháp làm tăng nguồn lực... Chấp hành ngân sách có sự hợp tác của nhiều cơ quan và các cấp chính quyền. Việc cấp phát kinh phí cũng được thực hiện ở cơ quan ngân khố thuộc ngân hàng Chính phủ (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
Việc quản lý ngân sách giáo dục được thực hiện bằng một cơ quan giám sát và kiểm tra của Chính phủ với các công cụ pháp lý khá đầy đủ là các đạo luật. Ngày 1/12/1980, Quốc hội Hàn quốc đã thông qua đạo luật là Luật thuế giáo dục, theo luật định thì phải tiến hành thu thuế để đảm bảo cung cấp cho nhu cầu của kinh phí giáo dục, đào tạo. Cùng với việc cải cách giáo dục, cải cách bộ máy hành chính, ngân sách giáo dục, đào tạo được quản lý theo một đầu mối thống nhất là Cơ quan quản lý giáo dục trực thuộc Chính phủ (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
- Kinh nghiệm của Philippin
Hàng năm Bộ Tài chính đưa ra khung (số kiểm tra) cùng các hướng dẫn xây dựng kế hoạch chi ngân sách giáo dục, đào tạo. Các quá trình ngân sách được tiến hành rất công phu, xác định đầy đủ cơ cấu nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo. Cấp phát kinh phí được tiến hành theo từng quý, đồng thời có cơ quan kiểm toán độc lập có trách nhiệm kiểm tra và thẩm định các báo cáo chi tiêu nguồn Ngân sách Nhà nước cho giáo dục, đào tạo. Về cơ bản qui trình quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo giống Việt Nam (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
- Một số nước khác có nền giáo dục phát triển
Tại các nước có nền kinh tế phát triển cao nhất thế giới, giáo dục đào tạo gần như được Nhà nước bao cấp hoàn toàn qua ngân sách nhà nước. Bởi chỉ có Nhà nước mới có thẩm quyền, uy tín, tài lực đảm đương tính công bằng dân chủ của quốc sách giáo dục: ai cũng có thể đi học, đạt trình độ nếu có năng khiếu. Ví dụ ở Bỉ, ngân sách nhà nước cấp 75%, phần thu học phí từ sinh viên chỉ chiếm 4%, phần còn lại là từ hợp đồng dịch vụ, dự án nghiên cứu công nghệ… Ở Mỹ, nguồn thu lớn của các trường đại học công lập là tài trợ lấy từ nguồn thuế của bang chiếm 25% đến 40%, nguồn thu học phí của sinh viên chiếm khoảng 20%, thu từ hoạt động dịch vụ chiếm hơn 20%, và còn lại từ nguồn khác. Ở Đức, ngân sách nhà nước cấp gần như toàn bộ kinh phí cho các trường đại học công lập hoạt động, sinh viên theo học không phải đóng học phí. Tại nước Nga, chủ trương quan trọng là tăng cường đồng thời nguồn ngân sách nhà
nước (nguồn chủ yếu) kết hợp với huy động, thu hút nguồn đóng góp bổ sung thường xuyên ngoài ngân sách về tài chính - vật tư của xã hội, gia đình, cộng đồng địa phương, xí nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
* Tại nước Mỹ, từ năm 1994 Ủy ban chuẩn mực kế toán đã đưa ra các chuẩn mực về kế toán chi phí áp dụng cho các cơ sở đào tạo có nhận một mức tài trợ nhất định từ Chính phủ liên bang. Các chuẩn mực này nhằm bảo đảm các cơ sở đào tạo đó thực hiện một cách nhất quán các thủ tục và chính sách về kế toán chi phí đồng thời tuân thủ các quy định liên quan của Chính phủ (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
* Tại nước Anh, Ủy ban bảo trợ đại học (UGC) giữ vai trò phân bổ ngân sách giáo dục cho các trường đại học. Để thực hiện vai trò này, ngoài việc dựa vào các dữ liệu thống kê (số lượng sinh viên, giảng viên…), UGC còn phân tích chi phí và thu nhập của các trường đại học dựa vào các chỉ tiêu kết quả hoạt động (thị phần đào tạo, tỷ lệ tốt nghiệp…) (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, nhận thức được sự phát triển giáo dục gắn mật thiết hữu cơ với sự phát triển khoa học, và cùng với khoa học, giáo dục ngày càng trở thành động lực của tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân, là một trong những nhân tố quan trọng nhất đảm bảo an ninh và sự hùng cường quốc gia, cũng như sự an toàn của mỗi công dân… Sự đổi mới giáo dục giữ vai trò then chốt trong sự bảo tồn của dân tộc, nguồn gen của chúng, đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội có mức sống cao. Do vậy, các nước này duy trì ổn định và không ngừng huy động thêm nguồn đầu tư cho hoạt động giáo dục các trường đại học công lập, trong đó nguồn kinh phí từ tài trợ của ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ lực, bên cạnh các nguồn thu khác (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2009).
Tuy nhiên, các nước cũng đã có các biện pháp, chính sách quản lý tài chính hữu hiệu, bảo đảm hoạt động giáo dục đào tạo của các trường công lập có nhận tài trợ từ Chính phủ đi đúng định hướng đề ra, đáp ứng được đòi hỏi của xã hội đối với giáo dục và thậm chí đi trước xu thế phát triển của thế giới.