2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Phát triển Việt Nam
2.1.1.1 Quá trình hình thành và phát riển của ngân hàng Phát triển Việt Nam
Để thực hiện mục tiêu phát triển, Chính phủ thường sử dụng các công cụ của mình để đầu tư vào các lĩnh vực mà khu vực tư nhân không thể thực hiện được như các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án mang tầm chiến lược quốc gia, thuộc ngành kinh tế mũi nhọn, các dự án thuộc vùng khó khăn, kém phát triển thường đòi hỏi lượng vốn lớn nhưng thời gian thu hồi vốn chậm, các nhà đầu tư thường không muốn hoặc không có khả năng đầu tư. Thực hiện chủ trương trên, Quỹ hỗ trợ Phát triển được thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ. Tổ chức và hoạt động theo Điều lệ ban hành kèm theo Quyết định số 231/1999/QĐ-TTg ngày 17/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ. Từ tháng 9/2001, Quỹ được bổ sung nhiệm vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Việc hình thành và phát triển hệ thống Quỹ Hỗ trợ và Phát triển để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là bước kế tiếp thành công của sự đổi mới mô hình tổ chức tài chính của Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện khả năng tích luỹ của ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển có hạn, cùng với các chính sách thu hút đầu tư, việc thành
lập Quỹ Hỗ trợ và phát triển đã giúp Chính phủ có thêm công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ phát triển các ngành, các vùng, các sản phẩm trọng điểm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và khai thác những tiềm năng to lớn của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Chính phủ, Quỹ Hỗ trợ và phát triển đã bộc lộ những tồn tại vướng mắc cả về cơ chế chính sách, phạm vi quy mô hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức dẫn đến việc hạn chế khả năng phát triển của Quỹ, ảnh hưởng đến độ an toàn trong hoạt động tài chính. Nếu không được khắc phục kịp thời sẽ rất khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam cần phải cải cách và điều chỉnh cơ chế chính sách, đặc biệt là các chính sách trợ cấp phù hợp với các cam kết quốc tế. Do đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ chức lại bộ máy và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển .
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002; Căn cứ Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005; Căn cứ Luật Các tổ chức tín dụng ngày 12 tháng 02 năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Các tổ chức tín dụng ngày 16 tháng 5 năm 2004; Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Theo Quyết định 108/2006/QĐ - TTg của Chính phủ, Ngân hàng Phát triển Việt Nam được thành lập trên cơ sở Quỹ Hỗ trợ phát triển để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và chính thức hoạt động từ ngày 01/7/2006.
Ngân hàng Phát triển có tên gọi quốc tế là The Vietnam Development Bank (tên viết tắt VDB), trụ sở chính đặt tại 25A Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội, có tư cách pháp nhân, vốn điều lệ, có con dấu, được mở tài khoản tại Ngân
hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước.Với vốn điều lệ là hơn 5000 tỷ đồng từ nguồn vốn điều lệ hiện có của Quỹ Hỗ trợ Phát triển, hoạt động của Ngân hàng Phát triển không vì mục đích lợi nhuận, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. Thời gian hoạt động của Ngân hàng Phát triển có thời hạn là 99 năm, kể từ ngày ký Quyết định.
Là tiền thân của Quỹ Hỗ trợ phát triển, hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam trên tinh thần là một ngân hàng chính sách của Chính phủ, là công cụ thực hiện chính sách đầu tư phát triển của nhà nước và chính sách xuất khẩu. So với hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Phát triển hiện nay sẽ được tăng quyền chủ động, tăng tính trách nhiệm trong đánh giá, thẩm định cho vay các dự án và có quyền từ chối cho vay đối với những dự án kém hiệu quả. So với các ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng Phát triển có sự khác biệt là tổ chức tài chính thuộc sở hữu 100% của Chính phủ, không nhận tiền gửi từ dân cư. Do hoạt động của ngân hàng không vì mục đích lợi nhuận nên được hưởng một số ưu đãi đặc biệt như không phải dự trữ bắt buộc, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn chịu sự điều tiết của Luật các tổ chức tín dụng, do vậy vẫn phải chấp hành các quy định trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, và quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước.
Các doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng Phát triển với lãi suất cho vay sẽ rẻ hơn vay của các ngân hàng thương mại khác. Bởi vì Ngân hàng cho vay theo lãi suất thị trường, theo thông lệ quốc tế là lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng thêm một khoản phí nhất định (khoảng 1%/năm).
Điều này cho thấy sự ưu đãi không chỉ được vay rẻ mà thời hạn cho vay dài sẽ giúp cho đối tượng vay vốn chủ động hơn trong kế hoạch sản xuất. Hơn nữa, việc khấu hao máy móc, nhà xưởng, v.v. cũng được dài hơn nên khách hàng vay vốn có điều kiện tích lũy để tái sản xuất và mở rộng đầu tư, điều kiện cho vay của ngân hàng đơn giản hơn so với vay từ các ngân hang thương mại khác như không phải thế chấp, hoặc nếu có thì tỷ lệ thế chấp ở mức tương đối thấp, bằng 30% giá trị khoản vay.
Ngân hàng Phát triển mới ra đời trên cơ sở kế thừa nền tảng thực hiện và những quy trình nghiệp vụ của Quỹ Hỗ trợ và phát triển trước đây. Bước đầu, Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã ổn định về mặt tổ chức và đang gấp rút tiến hành sửa đổi bổ sung các quy chế nghiệp vụ theo chức năng nhiệm vụ mới và đáp ứng tốt hơn mục tiêu phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, chuẩn bị từng bước cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhân lực để có thể thực hiện được chức năng, nhiệm vụ như một ngân hàng chuyên nghiệp trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
2.1.1.2. Trách nhiệm ,quyền hạn của ngân hàng Phát triển
- Ngân hàng Phát triển được quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Chính phủ giao cho Ngân hàng Phát triển theo quy định của Pháp luật. Huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi; vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng, kinh tế xã hội theo các quy định của Pháp luật.
- Được mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại khác trong nước và nước ngoài theo các quy định của Pháp luật: mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước theo quy định của Pháp luật.
- Thực hiện bảo toàn vốn và được áp dụng các biện pháp bảo toàn vốn: chịu trách nhiệm về thất thoát vốn của Ngân hàng Phát triển theo quy định của Phát luật.
- Thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu theo các quy định có liên quan.
- Kiểm toán báo cáo tình hình tài chính hàng năm bởi tổ chức kiểm toán độc lập; thực hiện công khai , minh bạch về hoạt động và tài chính của ngân hàng Phát triển và chấp hầnh chế độ báo cáo thống kê cới các cơ quan có thẩm quyền
- Uỷ thác, nhận uỷ thác trong hoạt động của ngân hàng và các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng; cung ứng các dịch vụ tài chính, ngân hàng cho khách hàng theo quy định của pháp luật và quy định của Thủ tướng Chính phủ
Ngân hàng Phát triển được quyền:
+Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của khách hàng trước khi quyết định cho vay, bảo lãnh;
+ Thẩm định và chịu trách nhiệm về việc thẩm định phương án tài chính, phương án kinh doanh, phương án trả nợ của khách hàng;
+ Từ chối cho vay, hỗ trợ sau đậu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu các dự án, các khoản vay không đảm bảo các điều kiện theo quy định;
+ Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng;
+ Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước thời hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật;
+ Khởi kiện khách hàng hoặc người bảo lãnh vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật;
+ Khi đến hạn trả nợ , nếu các bên không có thoả thuận khác mà khách hàng không trả được nợ thì Ngân hàng Phát triển được quyền phát mại tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của ngân hàng Phát triển 2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Phát triển
Sơ đồ tổ chức bộ máy
Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Phát triển gồm:
- Hội đồng Quản lý - Ban kiếm soát - Bộ máy điều hành :
+ Hội sở chính đặt tại Thủ đô Hà Nội. Tại Hội sở chính có các Ban, trung tâm chuyên môn nghiệp vụ sau: Ban Tổ chức cán bộ, đào tạo và lao động tiền lương, Kế hoạch tổng hợp, Ban Tín dụng trung ương, Ban Tín dụng địa phương, Ban Tín dụng xuất khẩu, Ban Hỗ trợ lãi suất và cấp phát vốn ủy thác, Ban Thẩm định, Ban Quản lý vốn nước ngoài và quan hệ quốc tế, Ban Pháp chế, Ban Kiểm
Hội đồng quản lý
Bộ máy điều hành Ban kiểm soát
Văn phòng đại diện trong nước Chi nhánh
Ngân hàng tại địa phương
Văn phòng đại diện tại nước ngoài Sở
Giao dịch
Thủ tướng Chính phủ
tra kiểm tóan nội bộ, Ban tài chính kế toán, Trung tâm công nghệ thông tin, Ban Xử lý nợ, Văn phòng Ngân hàng Phát triển.
+ Sở giao dịch, Chi nhánh, Văn phòng đại diện trong và ngoài nước.
Ngân hàng Phát triển tổ chức bộ máy quản lý điều hành tại mốt số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phù hợp với yêu cầu và phạm vi hoạt động của ngân hàng, bảo đảm tinh gọn hiệu quả. Hiện nay, Ngân hàng Phát triển có 01 Sở giao dịch tại Hà Nội, 62 Chi nhánh ngân hàng Phát triển tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 01 văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh, chưa có văn phòng đại diện tại nước ngoài, khoảng 2.500 cán bộ.
a, Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát triển
Hội đồng quản lý có 5 thành viên chuyên trách và thành viên không chuyên trách. Chủ tịch, Tổng Giám đốc Ngân hàng là thành viên chuyên trách; thành viên kiêm nhiệm là lãnh đạo các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm các thành viên Hội đồng quản lý theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi có ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan.
Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản lý là 5 năm, hết nhiệm kỳ có thể được bổ nhiệm lại.
Hội đồng quản lý quản lý Ngân hàng Phát triển theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định các kế hoạch phát triển, định hướng hoạt động của Ngân hàng; Phê duyệt kế hoạch hoạt động hàng năm của Tổng Giám đốc;
Quyết định bộ nhiệm các chức danh lãnh đạo; Ban hành các văn bản về quy chế hoạt động của Hội đồng quản lý, Ban kiếm soát và nghiệp vụ của Ngân hàng; Kiến nghị lên Bộ trưỏng Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ để sửa đổi bổ sung chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu, sửa đổi bổ sung Điều lệ của ngân hàng….
Hội đồng quản lý làm việc theo chế độ tập thể, 3 tháng họp một lần để xem xét các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình. Khi cần thiết có thể họp bất thường.
b, Ban kiểm soát
Ban kiếm soát có tối đa 7 thành viên chuyên trách, là các chuyên gia am hiểu lĩnh vực tài chính , tín dụng, đầu tư…. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra việc chấp hành chủ trưong, chính sách của Hội đồng quản lý; Kiểm tra hoạt động tài chính, thẩm định các báo cáo tài chính hàng năm, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, hoạt động của hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ Ngân hàng Phát triển.
c, Tổng Giám đốc và bộ máy giúp việc
Điều hành hoạt động của ngân hàng là Tổng Giám đốc, giúp việc cho Tổng Giám đốc là các Phó Giám đốc, Kế toán trưởng. Tổng Giám đốc là người đại diện pháp nhân của ngân hàng, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản lý, trước Thủ tướng Chính phủ và trước pháp luật về việc điều hành hoạt động của Ngân hàng. Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng là người giúp Tổng giám đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động theo phân công của Tổng Giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giao. Tổng Giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sau khi có ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan. Phó Tổng Giám đốc, kế toán trưởng do Hội đồng quản lý bổ nhiệm trên cơ sơ đề nghị của Tổng Giám đốc.
Tổng Giám đốc tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao cho Ngân hàng; Điều hành, quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động của ngân hàng; Quy định về phân cấp cho các đơn vị; Quy định về lãi suất cho vay, lãi suất huy động vốn, Nhận vốn và các nguồn lực khác do Chính phủ giao….
2.1.2.2 Hoạt động chính của Ngân hàng Phát triển Việt nam
Là một tổ chức tài chính phát triển được Chính phủ thành lập, Ngân hàng phát triển có những đặc trưng nhất định của một ngân hàng chính sách của Chính phủ. Ngân hàng Phát triển tiếp tục thực hiện các hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển và đang xây dựng các quy trình nghiệp vụ mới của các hoạt động cũ và những hoạt động mới được bổ sung, về cơ bản các hoạt động hiện tại của ngân hàng đó là:
Huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước theo quy định của Chính phủ.
Thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển: cho vay đầu tư phát triển; hỗ trợ sau đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Thực hiện chính sách tín dụng xuất khẩu: cho vay xuất khẩu; bảo lãnh tín dụng xuất khẩu; bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Nhận uỷ thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại;
nhận uỷ thác, cấp phát cho vay đầu tư và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua hợp đồng nhận ủy thác giữa ngân hàng Phát triển với các tổ chức uỷ thác.
Ủy thác cho các tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng Phát triển.
Cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế phục vụ các hoạt động của ngân hàng Phát triển theo quy định của pháp luật.
Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu.
Ngân hàng phát triển thực hiện các hoạt động tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu trên cơ sở đảm bảo mục tiêu chính sách của Chính phủ