T ổ chức Tàu ty và thể lệ ngoại thương ở Đàng Trong

Một phần của tài liệu giao thương đàng trong với các nước trên thế giới thế kỷ xvii xviii (Trang 55 - 61)

TRÊN TH Ế GIỚI THẾ KỶ XVII - XVIII

2.1. CHÍNH SÁCH GIAO THƯƠNG CỦA CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG

1.1.2. T ổ chức Tàu ty và thể lệ ngoại thương ở Đàng Trong

Với tư cách là một chính thể cát cứ có quyền độc lập trong các mối quan hệ bang giao quốc tế, về kinh tế đối ngoại, các chúa Nguyễn đã chủ động đặt ra bộ máy phụ trách về hoạt động ngoại thương, chế độ thuế quan, và thể lệ xuất nhập khẩu.

Tổ chức Tàu vụ

Tàu vụ (còn gọi là Tàu ty vụ hay Tàu ty) là cơ quan ngoại thương của chính quyền Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn, đóng tại dinh Thuận Hóa. Các quan của Tàu vụ chỉ đến hoạt động ở Quảng Nam vào mùa mậu dịch. Tại dinh trấn Thanh Chiêm của Quảng Nam, cách Hội An khoảng 9 km có một tuần ty đặt sở tuần ở đó. Tổ chức Tàu vụ có chức năng như một cơ quan đại diện nhà nước, thay mặt dinh phủ ở Thuận Hóa để trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động ngoại thương.

Lê Quý Đôn cho chúng ta biết những thông tin cụ thể về bộ máy viên chức ngoại thương thời chúa Nguyễn, Tàu vụ có 175 người, được phiên chế như sau: Cai tàu 1 người, tri tàu 1 người, cai bạ tàu 2 người, tri bạ tàu 2 người, cai phủ tàu 2 người, kí lục tàu 2 người, thủ tàu nội 2 người, cai phòng 6 người, lệnh sử 30 người, toàn súng binh 50 người, lính tàu 70 người (4 đội), thông sự 7 người [82, tr.231].

Những số liệu trên đây cho thấy, các chúa Nguyễn đã dùng một lực lượng khá lớn gồm những quan chức và binh lính để lo cho việc ngoại thương. Có lẽ, trong lịch sử nước ta cho đến thời điểm này, chưa có lúc nào nhà nước quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương như thời kỳ này. Đồng thời, việc đặt cơ quan Tàu vụ tại Quảng Nam cũng cho thấy, chúa Nguyễn đã muốn biến Hội An thành một

"đặc khu kinh tế" an toàn của Đàng Trong và nâng vai trò của ngoại thương lên tầm chiến lược quốc gia. Chỉ riêng việc các chúa Nguyễn thường cắt cử thế tử trấn thủ xứ Quảng Nam cũng đủ thấy vùng đất này có vị trí chiến lược rất quan trọng.

Trong Tàu vụ, người Trung Quốc và người Minh Hương vốn có nhiều tri thức và kinh nghiệm ngoại thương hơn người Việt, nên thường được chúa Nguyễn giao phó nhiều chức vụ quan trọng.

Thủ tục khai báo, lễ vật và thuế xuất nhập cảng

Trong việc buôn bán với nước ngoài, các chúa Nguyễn đề ra những thể lệ khá cụ thể. Mỗi khi tàu buôn nước ngoài đến phải qua một số thủ tục, các thủ tục này thay đổi tùy nơi tùy lúc, nhưng trên những nét lớn có những điểm giống nhau.

Phủ biên tạp lục cũng giúp chúng ta có thêm hiểu biết về những thủ tục mua bán khi tàu nước ngoài đến xứ Thuận - Quảng. Vì việc buôn bán ở đây thường diễn ra theo đặc điểm gió mùa, nên hàng năm cứ đến tháng giêng thì các viên cai bạ, tri bạ, lệnh sử, cai phủ, ký lục của Tàu ty đều vào phố Hội An xứ Quảng Nam, chọn những người thông hiểu tiếng nước ngoài đi canh giữ cù lao Chiêm và cửa Đà Nẵng (tức gọi cửa Hàn), khi thấy có tàu buôn các nước đến thì phải xét hỏi nghiêm ngặt, không bỏ qua tàu nào. Nếu thấy tàu buôn chịu đóng thuế thì đưa thuyền trưởng và tài phó (tức là kế toán) tàu ấy vào phố Hội An, trình lên cai bạ xem xét, sau đó trình quan cai tàu để truyền cho tuần ty cử dân phu đến hộ tống tàu ấy vào cửa đậu ở sở tuần. Lệnh sử và các nha đến xem xét. Thuyền trưởng và tài phó kê khai số khách, hàng hóa sau khi kiểm tra, đối chiếu xong mới cho qua sở tuần mà đến phố Hội An neo đậu.

Sau đó, thuyền trưởng soạn lễ báo tin, trình lên chúa Nguyễn và các quan Tàu vụ. Lễ vật chỉ có chè, dâng lên chúa Nguyễn 3 cân, cai tàu 2 cân, tri bạ, cai phủ, ký lục mỗi viên nửa cân. Đơn khai báo hàng hóa và hành khách nộp ở chính dinh, chúa Nguyễn xem trước rồi mới chiếu phát cho các quan.

Bước thứ hai, thuyền trưởng soạn lễ tiến gồm các loại gấm, đoạn, lĩnh, sa, đồ chơi của kỹ nghệ phương Tây, hoa quả, kê khai và trình lên quan cai bạ, đệ trình quan

cai tàu, chiếu nộp cho chúa Nguyễn. Lễ này không có quy định cụ thể là bao nhiêu, ước tính tiền khoảng độ 500 quan. Đối với những tàu dâng một hai thứ lễ, nếu chúa Nguyễn thích ý thì truyền cho miễn thuế, hoặc đánh thuế không theo lệ thường.

Tiến lễ xong, thuyền trưởng kê khai hàng hóa trong tàu mỗi hạng một bản. Việc kê khai, kiểm tra hàng hóa và hành khách diễn ra rất chặt chẽ và nghiêm ngặt. Nếu nhân viên tàu vụ phát hiện có gian lận trong việc khai báo, dù chỉ một vật nhỏ thôi, cũng bị nhà nước tịch thu và trị tội theo luật của nhà nước Đàng Trong. Chúa Nguyễn muốn thứ gì thì phái cho quan cai tàu chiếu theo bản khai để thu mua và đem nộp cho kho công. Những thứ hàng hóa nhà nước không mua thì cho đem bán ra ngoài hoặc đổi chác. Trong việc mua bán giữa chủ tàu với nhà nước có khi cũng mặc cả, điều chỉnh giá cho thỏa mãn cả hai bên, tuy nhiên cũng có trường hợp nhà nước Đàng Trong dùng quyền lực để ép giá. Số tiền nhà nước mua hàng bao nhiêu sẽ được trừ vào thuế nhập cảng. Nếu số tiền thuế nhập cảng cao hơn số tiền nhà chúa mua hàng thì cho phép sau khi bán hàng xong sẽ thanh toán.

Lễ tiến chỉ áp dụng đối với tàu Thượng Hải, Quảng Đông, Phúc Kiến, Ma Cao, còn đối với tàu Hải Nam thì không thành thông lệ.

Lễ trình diện các quan cai tàu so với lễ tiến có nhẹ hơn, phẩm vật chỉ còn khoảng một nửa, cai bạ và các nha thì theo thứ bậc mà giảm dân.

Điều đáng nói là chúa Nguyễn cũng tỏ ra rất "lịch sự" trong việc đối xử với các tàu buôn nước ngoài. Sau khi hoàn tất việc mua bán, trao đổi, đến ngày tàu về, nếu tàu nào trước đây có lễ tiến thì tùy theo mức độ nhiều ít mà nhà nước tặng quà cho, có thể vật phẩm là bạc 5 hốt, lụa 5 tấm,.... Việc làm này không theo một chuẩn lệ nào cả.

Nếu tàu buôn đưa trả dân bị giạt, kết hợp để buôn bán thì nhà nước miễn cho thuế cảng. Nếu các tàu có mua hàng hóa ở Đàng Trong mang về thì làm đơn trình quan cai bạ để người có trách nhiệm xem xét, sai quân áp tải đưa đến thuyền, không được tự tiện chở riêng. Thuyền nào chở đầy hàng hóa và hành khách thì thuyền trưởng làm đơn trình báo, nhà nước sẽ căn cứ vào số khách khi đến, kiểm tra lại, rồi giao cho thuộc quân và tuần ty cử người hộ tống ra khỏi cửa biển.

Trường hợp thuyền đi buôn bán ở các nước khác gặp gió giạt vào, làm đơn trình xin tạm trú để sửa chữa, thì Tàu vụ sẽ giải quyết.

Tàu nào muốn chở thuê hàng hóa và hành khách thì làm đơn trình báo để Tàu vụ sai người đến kiểm tra xem người ở xứ nào và thuyền lớn hay nhỏ, chở khách nhiều hay ít, định thu thuế theo lệ rồi mới cho chở thuê; đôi khi cũng không theo lệ.

Thuyền gặp gió bão bị phá hỏng, thì xem xét số khách, cai bạ giao cho hội quán trông giữ, cấp phát tiền nhà nước, lương tháng cho mỗi người 5 tiền, đợi đến khi thuận gió thì cho giong theo các thuyên mà về nước.

Xem ra, nhà nước Đàng Trong đã rất chu đáo trong vấn đề tiếp nhận và xử lý các trường hợp tàu nước ngoài cập bến Hội An. Mỗi trường hợp, tùy theo tình hình cụ thể mà xử lý một cách thỏa đáng. Trong đó nổi lên một vấn đề là sự quản lý tàu nước ngoài trong thời gian này hết sức chặt chẽ. Điều này cho thấy, mặc dù chúa Nguyễn rất muốn mở rộng giao thương với nước ngoài nhưng cũng rất thận trọng trong vấn đề giữa gìn an ninh, đảm bảo những lợi ích trong vấn đề thương mại của cả hai bên. Tuy nhiên, những thể lệ buôn bán với tàu buôn nước ngoài như đã trinh bày ở trên cũng cho thấy thủ tục hành chính trong quan hệ kinh tế đối ngoại khá rườm rà, phức tạp, còn mang nặng tính chát phong kiên.

Về thuế xuất nhập cảng

Trong ghi chép về Xứ Đàng Trong năm 1621, Borri cho rằng, chúa Nguyễn đã kiếm được rất nhiều mối lợi không thể tả hết [23, tr.99], nhờ buôn bán với nước ngoài và thu thuế hải khẩu. Còn Edward Saris thì viết: "nhà vua rất muốn có súng lớn bằng đồng thau và nếu chúng ta có thể đem đến cho người một khẩu (...), chúng ta sẽ không phải trả thuế nữa" [85, tr. 127].

Một thực tế là, khi thuyền nước ngoài đến tiến lễ lên cho chúa, hễ "thích ý thì miễn thuế, không theo lệ".

Qua các nguồn tài liệu trên đây giúp chúng ta có thể đi đến kết luận rằng, đầu thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã đặt ra lệ thuế buôn bán ở Đàng Trong, nhưng việc thực hiện

thì không theo luật lệ đã qui định, nó tùy thuộc vào chủng loại và số lượng hàng hóa, vào hoàn cảnh cụ thể, vào sự mặc cả giữa hai bên, và vào sở thích của chúa.

Đến thế kỷ XVIII, những qui định về thuế xuất nhập đã rõ ràng hơn. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn đã ghi lại thuế thuyền buôn đến và đi qua kê khai của quan lệnh sử tàu cũ là Võ Chân Đại như sau: Tàu Thượng Hải: thuế đến 3000 quan, thuế đi 300 quan; tàu Quảng Đông: thuế đến 3000 quan, thuế đi 300 quan; tàu Phúc Kiến:

thuế đến 2000 quan, thuế đi 200 quan; tàu Hải Nam: thuế đến 500 quan, thuế đi 50 quan; tàu Tây Dương P(3)P: thuế đến 8000 quan, thuế đi 800 quan; tàu Ma Cao: thuế đến 400 quan, thuế đi 40 quan; tàu Nhật Bản: thuế đến 4000 quan, thuế đi 400 quan; tàu Xiêm: thuế đến 2000 quan, thuế đi 200 quan; tàu Lữ TốngP(4)P: thuế đến 2000 quan, thuế đi 200 quan; tàu Cựu cảng: thuế đến 500 quan, thuế đi 50 quan; tàu Hà Tiên: thuế đến 300 quan, thuế đi 30 quan; tàu Sòm ĐôP(6)P: thuế đến 300 quan, thuế đi 30 quan [82, tr.231-232].

Theo chúng tôi, Li Tana đã có lý khi cho rằng, bảng thuế trên không thể có vào thế kỷ XVII, vì có những địa danh được nêu ương danh sách thuê như Thượng Hải, Hà Tiên không thể có trước thế kỷ XVIII. Vì thế, bảng thuế này các chúa Nguyễn thực hiện vào thế kỷ XVIII.

Nhìn vào biểu thuế, có thể nhận thấy, thuế xuất và nhập cảng có khác nhau đối với từng loại tàu, thuyền đến từ mỗi quốc gia. Có thể hiểu mức thuế đó được đặt ra tùy theo trọng tải và lượng hàng xuất - nhập của từng loại tàu thuyền. Cùng với những nguồn tư liệu khác, ta biết được rằng, thông qua chế độ thuế quan, chúa Nguyễn còn muốn bày tỏ sự ưu ái đối với thương nhân một số nước.

Thuế ngoại thương trên thực tế là một nguồn thu lớn của chính quyền Đàng Trong. Tuy nhiên, loại thuế này ở Đàng Trong tăng giảm còn tùy thuộc vào tình hình buôn bán trong từng thời kỳ, nhất là tùy thuộc vào số lượng tàu thuyên đến buôn bán.

Vào thế kỷ XVII, thuế nhập khẩu thấp, thường phải nộp từ 5 - 10% giá trị hàng hóa;

đèn thập niên 1750 thì tăng lên 12%, nhưng rồi lại giảm vào thập niên 1770 khi nền ngoại thương có dấu hiệu suy thoái [85, tr. 128].

Khi phân tích những số liệu mà Lê Quý Đôn đã đưa ra trong Phủ biên tạp lục [82:128], Li Tana đưa ra nhận định rất có lý: Tổng thu nhập quốc gia Đàng Trong trong thời kỳ từ 1746 đến 1752, lên xuống giữa 338.000 quan và 423.300 quan một năm. Thuế đánh trên tàu vụ là 38.000 quan (16 thuyền) năm 1771, giảm xuống còn 14.300 quan (12 thuyền) năm 1772. Nếu chỉ nhìn các số liệu mà thôi thì có thể nói rằng tàu vụ xem ra không quan trọng trong thu nhập quốc gia của Đàng Trong. Nhưng điểm quan trọng ở đây là con số tổng thu nhập tính từ 1746 đến 1752, khi số tàu thuyền hàng năm đến Đàng Trong là giữa 80 (theo Koffler có mặt ở Đàng Trong từ 1744 đến 1753) và 60 (theo Poivre có mặt ở Đàng Trong từ 1749 đến 1750). Thuế trung bình cho một chiếc thuyền, tính theo lệ thuế nói đến trên đây, là khoảng 2000 quan. Nếu chúng ta giả thiết có 70 thuyền tới Đàng Trong mỗi năm, một con số xem ra hợp lý đối với các thập niên 1740 - 1750, số thuế họ Nguyễn thu được từ số thuyền này sẽ là khoảng 140.000 quan, hoặc 1/3 đến 1/4 của tổng thu nhập. Xem ra sự tăng giảm trong thu nhập quốc gia cũng được phản ánh một cách rộng rãi nơi số thuyền tới mỗi năm. Chúng ta cũng có thể kết luận được rằng thuế trên tàu vụ còn quan trọng hơn nữa đôi với chê độ họ Nguyễn trong những ngày đâu khi sản xuất trong nước chưa phát triển và thuế đánh trên nông nghiệp, buôn bán ở địa phương và trên các dân

tộc thiêu sô chưa cao [85, tr. 129]. Từ phân tích của Li Tana với những số liệu cụ thể trên đây, cho phép chúng ta hiêu thêm răng, trong nên kinh tê của Đàng Trong, hoạt động giao thương đã đóng một vai trò hết sức quan trọng, nó không những tạo nên một bộ mặt mới cho xứ sở này bằng những hoạt động mua bán nhộn nhịp, sầm uất mà còn đem lại một nguồn thu ngân sách đáng kể cho nhà nước của các chúa Nguyễn.

2.2. HOẠT ĐỘNG GIAO THƯƠNG GIỮA ĐÀNG TRONG VỚI CÁC NƯỚC TRÊN THỂ GIỚI

Thế kỷ XVII - XVIII - một thời kỳ phát triển khá rầm rộ của thương nghiệp Việt Nam. Sự phát triển đó một mặt xuất phát từ các yếu tố bên trong: nhu cầu thoát khỏi sự gò bó của nông nghiệp cũng như sự phát triển tự thân của nó; điều kiện giao thông đi lại thuận lợi hơn trước; nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần; nhu cầu xây dựng tiềm lực kinh tế và chính trị quốc gia. Mặt khác, sự hình thành những luồng giao

lưu buôn bán quốc tế tác động mạnh mẽ đến các vùng lâu nay xa cách, đóng kín đã làm cho nhu cầu hàng hóa đặc sản địa phương tăng lên không ngừng; bên cạnh đó, có một thời nhà Thanh đóng cửa, buộc các thương nhân Trung Quốc cũng như nước ngoài dồn sang Việt Nam. Tất cả những điều đó vừa làm cho việc buôn bán với nước ngoài phát triển, vừa làm cho nội thương thêm nhộn nhịp, nhiều cảng thị ra đời.

Một phần của tài liệu giao thương đàng trong với các nước trên thế giới thế kỷ xvii xviii (Trang 55 - 61)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(182 trang)