Chương 2: NHẬN THỨC VỀ TRUYỀN THÔNG PHÕNG CHỐNG HIV/AIDS
2.4. Nhận thức về HIV/AIDS trong so sánh tộc người
Trong phần tiếp theo đây, tôi sẽ đi vào so sánh giữa hai nhóm tộc người nghiên cứu là người Tày và Hmông để tìm ra những khác biệt trong suy nghĩ và nhận thức của họ về phòng chống HIV/AIDS.
Trước hết cũng cần phải lướt qua về đặc điểm hai nhóm tộc người này trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Trong cơ cấu dân số toàn tỉnh, nếu không kể đến dân tộc Kinh (chiếm tỷ lệ lớn nhất với 334.993 người) thì dân tộc Tày là tộc người thiểu số có số dân đông nhất (185.464 người). Trong khi đó, dân tộc Hmông lại chiếm tỷ lệ
39
ít hơn rất nhiều với 16.974 người, chỉ gần bằng 1/10 số dân của tộc người Tày (GSO, 2010). Nhƣ vậy, xét về thành phần dân cƣ thì cộng đồng dân tộc Tày ƣu trội hơn nhiều lần so với dân tộc Hmông ở tỉnh. Tại hai địa điểm chọn mẫu (huyện Yên Sơn, huyện Lâm Bình), dân tộc Tày cũng hoàn toàn áp đảo người Hmông trong cơ cấu dân số địa phương nghiêng về. Cụ thể, theo báo cáo của Ủy ban Nhân dân huyện Yên Sơn và Ủy ban Nhân dân huyện Lâm Bình trong năm 2014, tại huyện Yên Sơn có 23.244 người Tày nhưng chỉ có 7.568 người Hmông; tại huyện Lâm Bình có 19.333 người Tày nhưng chỉ có 2063 người Hmông (xem số liệu chi tiết tại Bảng 2 và Bảng 3 trong phần Mở đầu).
Cùng với ƣu thế về dân số thì nhóm Tày cũng là cộng đồng có địa bàn tụ cƣ gần kề người Kinh. Họ thường sinh sống tại các thôn, xã dưới chân núi, dưới ven đồi, gần ven suối hoặc gần các tuyến đường giao thông chính, gần với thị tứ và các khu vực trung tâm huyện lỵ. Do đó dân tộc Tày có điều kiện thuận lợi hơn trong giao thương với người Kinh. Trong khi đó, người Hmông lại thường sinh sống ở những khu vực có địa hình cao, cách xa thị tứ và trung tâm huyện lỵ. Chỉ tính tỷ lệ số dân sinh sống ở thành thị với số dân sinh sống ở nông thôn của hai tộc người này chúng ta đã có thể thấy rõ điều đó. Cụ thể, cả tỉnh Tuyên Quang có 11.681 người Tày sinh sống ở thành thị chiếm 6,3% trong tổng số 18.5464 người Tày trên toàn tỉnh; trong khi chỉ có 118 người Hmông sinh sống ở thành thị chiếm 0,7% trong tổng số 16.974 người Hmông trên toàn tỉnh (GSO, 2010). Như vậy, có tới 99%
người Hmông ở Tuyên Quang sinh sống tại khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa.
Điều này khiến cho việc giao tác với các cộng đồng bên ngoài của người Hmông dường như bị hạn chế hơn rất nhiều.
Với những đặc trưng tộc người nêu trên, có thể dễ đưa đến giả thuyết về tương quan giữa trình độ phát triển kinh tế - xã hội của hai tộc người và sự tiếp nhận thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS của họ. Chẳng hạn người ta có thể cho rằng tộc người chiếm ưu thế về dân số cộng với trình độ kinh tế - xã hội phát triển hơn (trong luận văn này là trường hợp người Tày) thì rất có thể sẽ nhận được nhiều cơ hội tiếp cận các kênh truyền thông, nguồn thông tin truyền thông phòng chống
40
HIV/AIDS, và đương nhiên sẽ có nhận thức tốt về phòng chống HIV/AIDS. Còn tộc người yếu thế hơn trong luận văn này là trường hợp người Hmông sẽ gặp nhiều thách thức trong việc tiếp cận các kênh truyền thông, nguồn thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS, thì đương nhiên sẽ có nhiều nhận thức chưa đúng về phòng chống HIV/AIDS.
Thế nhƣng thông tin thực địa hé mở rằng những suy nghĩ, nhìn nhận sai lệch bộc lộ ở cả hai nhóm cộng đồng nghiên cứu Các dữ liệu định lƣợng sẽ góp phần minh họa rõ hơn thực tế này.
Bảng 7: Nhận thức về bản chất bệnh HIV/AIDS của dân tộc Tày và dân tộc Hmông
TT Cách hiểu về bản chất bệnh HIV/AIDS
Tỷ lệ trả lời phân theo tộc người (%) Tổng Tộc người Tày Tộc người Hmông (%)
1 Là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội
28,1 26,6 54,7
2 Là bệnh lao phổi 6,25 4,25 10,9
3 Là bệnh giang mai 7,9 9,4 17,3
4 Là bệnh ung thƣ 1,6 3,1 4,7
5 Là bệnh khác (xin ghi rõ) 6,2 6,2 12,4
Tổng 50 50 100
Bảng 7 cho thấy rằng tỷ lệ chênh lệch giữa người Tày và người Hmông xoay quanh nhận thức về bản chất HIV/AIDS hết sức nhỏ. Trong số gần 55% người dân trả lời HIV/AIDS là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội thì người Tày chiếm 28%, nhỉnh hơn không đáng kể so với mức 27% đáp viên Hmông.
Nhưng trong số gần 11% cho rằng HIV/AIDS là bệnh lao phổi thì tỷ lệ người Tày nhận thức sai lại cao hơn một chút so với người Hmông.
41
Có thể thấy rằng tỷ lệ trả lời chưa chính xác ở người Tày và người Hmông quanh bản chất HIV/AIDS chênh lệch không đáng kể. Điều này cũng biểu hiện qua nội dung trả lời của người dân hai nhóm về con đường lây truyền HIV.
Bảng 8: Nhận thức của người dân tộc Tày và dân tộc Hmông về các con đường lây nhiễm HIV
STT Các trường hợp có thể khiến chúng ta bị lây nhiễm HIV
Tỷ lệ trả lời phân theo tộc người (%) Tổng Tộc người Tày Tộc người Hmông (%)
Đúng Sai Đúng Sai
1 Quan hệ tình dục với người nhiễm HIV 50 0 50 0 100 2 Truyền máu/tiếp xúc vết thương với máu
người nhiễm HIV
50 0 50 0 100
3 Ăn cơm chung với người nhiễm HIV 37,5 12,5 40,6 9,4 100
4 Hôn người nhiễm HIV 42,2 7,8 43,7 6,3 100
5 Cầm tay hay ôm người nhiễm HIV 29,7 20,3 31,2 18,8 100 6 Ngủ chung giường với người nhiễm HIV 34,4 15,6 35,9 14,1 100 7 Nói chuyện với người nhiễm HIV 15,6 34,4 17,2 32,8 100 8 Dùng chung bơm kim tiêm với người
nhiễm HIV
50 0 50 0 100
9 Dùng chung cốc uống nước với người nhiễm HIV
38,1 11,9 43,1 6,9 100
10 Bị muỗi đốt 50 0 50 0 100
11 Mẹ nhiễm HIV lây truyền sang con khi sinh 50 0 50 0 100 12 Mua đồ của người nhiễm HIV bán 18,8 31,2 20,3 29,7 100
Bảng 8 trên cho thấy tỷ lệ nhận thức về con đường lây truyền HIV/AIDS của người dân tộc Tày và dân tộc Hmông chênh lệch không nhiều. Về nội dung bốn con đường lây truyền HIV chủ yếu (truyền dẫn máu, truyền dẫn tinh dịch/dịch âm đạo, tiền phóng tinh, lây truyền chu sinh) thì tất cả đáp viên người Tày và người Hmông đều lựa chọn đáp án đúng. Ở một số phương án trả lời khác, người Hmông có vẻ trả
42
lời nhiều câu chưa đúng hơn so với người Tày. Tuy nhiên, sự chênh lệch tương đối nhỏ. Tỷ lệ chênh lệch cao nhất (5%) thể hiện qua con số 38% người Tày đồng ý rằng dùng chung cốc uống nước với người nhiễm HIV sẽ làm lây bệnh, trong khi có đến 43% đáp viên Hmông nhất trí. Có vẻ như tỷ lệ trả lời đúng ở người Tày nhỉnh hơn người Hmông một chút. Sự chênh lệch dường như thể hiện rõ nét hơn trong phần trả lời về biện pháp phòng tránh lây truyền HIV/AIDS.
Bảng 9: Nhận thức của hai nhóm Tày và Hmông về các biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV
STT Các cách để phòng tránh sự lây nhiễm HIV
Tỷ lệ trả lời phân theo tộc người (%) Tổng Tộc người Tày Tộc người Hmông (%)
Đúng Sai Đúng Sai
1 Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục 50 0 50 0 100
2 Không dùng chung bơm kim tiêm 50 0 50 0 100
3 Mắc màn trước khi đi ngủ 50 0 50 0 100
4 Không nói chuyện với người có HIV 46,9 3,1 31,2 18,8 100 5 Không dùng chung bát đũa/cốc chén
với người có HIV
46,9 3,1 29,7 20,3 100
6 Không ăn uống cùng người có HIV 48,4 1,5 37,5 12,6 100 7 Không cầm tay, ôm, hôn người có HIV 48,4 1,5 45,35 4,75 100 8 Không mua đồ của người có HIV bán 45,3 4,75 42,2 7,75 100 9 Tránh ở cùng người có HIV tại bất kỳ
nơi nào
46,9 3,15 42,2 7,75 100
Quan sát bảng 9 ở trên, chúng ta thấy người dân ở cả hai nhóm dường như nhận thức về con đường lây truyền đúng nhưng lại lựa chọn biện pháp phòng tránh sai. Như đề cập ở phần trên, từ nỗi sợ mơ hồ về HIV/AIDS, người dân tộc thiểu số tại địa phương lựa chọn mọi cách để hạn chế tối đa sự tiếp cận với người có HIV/AIDS, kể cả trong trường hợp không thể bị lây nhiễm. Đáng chú ý là tỷ lệ nhận
43
thức đúng về con đường lây truyền HIV/AIDS ở nhóm đáp viên người Tày cao hơn so với người Hmông, nhưng khi họ lựa chọn biện pháp phòng tránh lây bệnh thì lại có tỷ lệ sai nhiều hơn các đáp viên Hmông. Đối chiếu với bảng 8 chúng ta thấy có khoảng 16% người Tày cho rằng nói chuyện với người có HIV sẽ làm lây bệnh, nhưng lại có tới gần 47% đáp viên Tày lựa chọn phương án không nói chuyện với người có HIV để phòng tránh lây bệnh (bảng 9). Tương tự, có độ 19% người Tày đồng ý rằng mua đồ của người có HIV bán thì sẽ làm lây bệnh, nhưng phải đến 45%
người Tày lựa chọn phương án không mua đồ của người có HIV bán để phòng tránh lây bệnh. Ở phần trả lời của người Hmông cũng bộc lộ tỷ lệ trả lời mâu thuẫn giữa nhận thức và thực hành nhưng thấp hơn so với người Tày.
Có vẻ nhƣ không có cách biệt đáng kể trong nhận thức và thực hành của hai nhóm tộc người xoay quanh vấn đề phòng chống HIV/AIDS.
Nhận thức tộc người trong tương quan với địa bàn sinh tụ
Thông tin định tính từ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung lại hé mở thêm rằng những ý kiến sai về bản chất bệnh chỉ biểu hiện ở cộng đồng dân tộc thiểu số thuộc huyện Lâm Bình – huyện cách xa trung tâm thành phố Tuyên Quang khoảng 100km và cách trung tâm thành phố Hà Giang khoảng hơn 100km đường bộ. Các ý kiến cho rằng HIV/AIDS là (1) bệnh về da nguy hiểm, (2) bệnh kim la, (3) bệnh ho ác, (4) bệnh ghẻ lở, (5) bệnh lao phổi, (6) bệnh giang mai đều đƣợc đƣa ra trong các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung với người dân huyện Lâm Bình. Trong các cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung tại huyện Yên Sơn chỉ thấy xuất hiện một ý kiến hiểu sai về bản chất HIV/AIDS khi xem HIV/AIDS là bệnh ung thư. Tuy nhiên, những ý kiến trả lời sai về con đường lây truyền và biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS vẫn thể hiện nhiều hơn ở cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Lâm Bình. Dường như cộng đồng dân tộc thiểu số ở huyện Lâm Bình có sự khó khăn hơn trong tiếp cận thông tin truyền thông; vì vậy mà kiến thức về phòng chống HIV/AIDS chƣa đƣợc tốt nhƣ cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn. Số liệu từ điều tra bảng hỏi càng củng cố thêm luận điểm trên.
44
Bảng 10: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và huyện Lâm Bình về bản chất HIV/AIDS
STT Cách hiểu về bản chất bệnh HIV/AIDS
Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn sinh sống (%) Tổng (%) Huyện Lâm Bình Huyện Yên Sơn
1 Là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội
12,5 42,2 54,7
2 Là bệnh lao phổi 9,4 1,5 10,9
3 Là bệnh giang mai 14,1 3,2 17,3
4 Là bệnh ung thƣ 3,2 1,5 4,7
5 Là bệnh khác (xin ghi rõ)
10,9 1,5 12,4
Tổng 50 50 100
Từ bảng 10, chúng ta có thể thấy tỷ lệ trả lời đúng của nhóm người dân huyện Lâm Bình thấp hơn hẳn so với huyện Yên Sơn. Đối với phương án cho rằng HIV/AIDS là suy giảm hệ miễn dịch gây ra các bệnh nhiễm trùng cơ hội thì có khoảng 12% người dân huyện Lâm Bình trả lời đúng, trong khi tỷ lệ trả lời đúng ở các đáp viên huyện Yên Sơn là 42%. Ở các phương án trả lời khác về bản chất HIV/AIDS, các đáp viên huyện Lâm Bình lại có tỷ lệ trả lời sai cao hơn hẳn so với huyện Yên Sơn. Chẳng hạn chỉ có 3,2% đáp viên dân tộc thiểu số huyện Yên Sơn cho rằng HIV/AIDS là bệnh giang mai, thì tỷ lệ ở huyện Lâm Bình lên tới 14%.
45
Bảng 11: Nhận thức của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Yên Sơn và huyện Lâm Bình về các con đường lây nhiễm HIV
TT Các trường hợp có thể khiến chúng ta bị lây nhiễm HIV
Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn sinh sống (%)
Tổng (%) Huyện Lâm Bình Huyện Yên Sơn
Đúng Sai Đúng Sai
1 Quan hệ tình dục với người nhiễm HIV 50 0 50 0 100 2 Truyền máu/tiếp xúc vết thương với
máu người nhiễm HIV
50 0 50 0 100
3 Ăn cơm chung với người nhiễm HIV 46,9 3,1 31,2 18,8 100
4 Hôn người nhiễm HIV 48,4 1,5 37,5 12,6 100
5 Cầm tay hay ôm người nhiễm HIV 45,3 4,7 15,6 34,4 100 6 Ngủ chung giường với người nhiễm
HIV
48,4 1,5 21,9 28,2 100
7 Nói chuyện với người nhiễm HIV 31,3 18,8 1,5 48,4 100 8 Dùng chung bơm kim tiêm với người
nhiễm HIV
50 0 50 0 100
9 Dùng chung cốc uống nước với người nhiễm HIV
46,9 3,1 34,3 15,7 100
10 Bị muỗi đốt 50 0 50 0 100
11 Mẹ nhiễm HIV lây truyền sang con khi sinh
50 0 50 0 100
12 Mua đồ của người nhiễm HIV bán 32,8 17,2 6,3 43,7 100 Bảng 11 tiếp tục thể hiện rõ sự khác biệt trong nhận thức của người dân hai huyện về con đường lây truyền HIV. Nếu không xét đến các câu hỏi có tỷ lệ trả lời bằng nhau, thì ở mỗi phương án đưa ra số người dân tộc thiểu số ở huyện Lâm Bình luôn có tỷ lệ trả lời sai cao hơn ở huyện Yên Sơn rất nhiều. Ví dụ nếu khoảng 19%
người dân tộc thiểu số ở huyện Yên Sơn hiểu rằng ăn cơm chung với người có HIV không thể làm lây bệnh thì con số đáp viên nhất trí với suy nghĩ đó ở huyện Lâm
46
Bình chỉ chiếm 3%. Tương tự, nếu có tới 31% người dân tộc thiểu số huyện Lâm Bình cho rằng nói chuyện với người nhiễm HIV cũng có thể làm lây bệnh, thì tỷ lệ chọn phương án trả lời đó ở huyện Yên Sơn là 1,5%.
So sánh số lượng trả lời ở mỗi phương án trong bảng 11 về con đường lây truyền HIV thì đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Yên Sơn luôn có tỷ lệ trả lời đúng cao hơn huyện Lâm Bình rất nhiều. Những số liệu này tiếp tục khẳng định chắc chắn hơn nữa về sự tồn tại của mối quan hệ giữa địa bàn sinh sống với việc tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS của người dân tộc thiểu số hai huyện. Rõ ràng có sự cách biệt đáng kể trong nhận thức người dân tại hai địa phương về bản chất HIV/AIDS. Dữ liệu định lƣợng này cho thấy mối liên hệ giữa cách biệt địa lý nơi sinh tụ và mức độ tiếp nhận kiến thức truyền thông của người dân hai huyện nghiên cứu.
Thế nhƣng yếu tố cách biệt địa lý này có vẻ lại không thể hiện rõ nét trong suy nghĩ và lựa chọn của người dân hai huyện về biện pháp phòng tránh lây nhiễm HIV:
Bảng 12: Nhận thức của người dân tộc thiểu số về các biện pháp phòng tránh lây truyền HIV phân theo huyện
STT Các cách để phòng tránh sự lây nhiễm HIV
Tỷ lệ trả lời phân theo địa bàn
sinh sống (%) Tổng (%) Huyện Lâm Bình Huyện Yên Sơn
Đúng Sai Đúng Sai
1 Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục 50 0 50 0 100
2 Không dùng chung bơm kim tiêm 50 0 50 0 100
3 Mắc màn trước khi đi ngủ 50 0 50 0 100
4 Không nói chuyện với người có HIV 40,6 9,4 37,5 12,5 100 5 Không dùng chung bát đũa/cốc chén với
người có HIV
42,1 7,8 34,5 15,6 100
6 Không ăn uống cùng người có HIV 43,75 6,25 42,15 7,85 100 7 Không cầm tay, ôm, hôn người có HIV 46,9 3,1 46,85 3,15 100 8 Không mua đồ của người có HIV bán 45,3 4,7 42,2 7,8 100 9 Tránh ở cùng người có HIV tại bất kỳ
nơi nào
45,3 4,7 43,8 6,2 100
47
Bảng 9 cho thấy người dân ở cả hai huyện cùng có xu hướng mâu thuẫn giữa nhận thức với lựa chọn thực hành. Có thể yếu tố địa bàn tụ cƣ không nhất thiết tác động đến việc người dân lựa chọn biện pháp phòng tránh lây nhiễm. Có lẽ người dân phần nào hiểu về bản chất bệnh và các con đường lây truyền, nhưng họ lại có vẻ chƣa “tin” và vẫn “sợ”. Điều này có thể sẽ khiến họ tìm mọi cách hạn chế tiếp xúc với người có HIV/AIDS.
Một mặt, các kết quả nghiên cứu ban đầu này hàm chỉ rằng chưa hẳn tộc người có ưu thế về số lượng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội (như người Tày) thì sẽ tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS tốt hơn; và ngƣợc lại, cũng chưa thể khẳng định được rằng tộc người yếu thế về số lượng và trình độ phát triển kinh tế - xã hội (như người Hmông) thì sẽ tiếp nhận kiến thức truyền thông kém hơn.
Mặt khác, các phát hiện nghiên cứu cho thấy yếu tố cách biệt địa lý dường như tác động rất đáng kể tới khả năng tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS. Cụ thể hơn, các cộng đồng sinh tụ ở những khu vực cách xa trung tâm thành thị thì việc tiếp nhận kiến thức truyền thông phòng chống HIV/AIDS sẽ gặp nhiều thách thức hơn. Điều này vô hình trung ảnh hưởng ngược trở lại đến mức độ nhận thức của người dân về chủ đề liên quan. Trong khi đó các cộng đồng sinh sống gần trung tâm thành thị có nhiều khả năng tiếp nhận đƣợc kiến thức truyền thông và nhận thức của người dân cũng có thể khả quan hơn.
Tiểu kết chương 2
Qua những phân tích ở chương 2, chúng ta thấy rằng mặc dù người dân tộc thiểu số tại Tuyên Quang đã có những kiến thức đúng nhất định về phòng chống HIV/AIDS nhưng con số người dân bộc lộ những cách hiểu chưa đúng vẫn còn khá nhiều. Thực tế cho thấy ngay cả khi người dân hiểu đúng nhưng lựa chọn thực hành lại không tương thích. Xét từ góc độ lý thuyết, điều này thể hiện thông điệp truyền thông mới chỉ đạt ở giai đoạn 3 (làm cho nhóm đối tƣợng nhận biết thông điệp;
Nhóm đối tƣợng nhận thức, hiểu biết thông điệp; Nhóm đối tƣợng chấp nhận thông