Chương 4: RÀO CẢN VÀ THÁCH THỨC – BÀI TOÁN KHÓ CHO
4.2. Khó khăn của cán bộ truyền thông
4.2.2. Hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc nâng cấp
Nhƣ đã phân tích ở phía trên, hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém không chỉ là rào cản đối với người dân tộc thiểu số tại địa phương trong quá trình tiếp nhận các thông tin truyền thông phòng chống HIV/AIDS mà còn gây ra khó khăn lớn cho cán bộ truyền thông trong việc đưa thông tin đến người dân (xem thêm tại phần 3.1.3).
Với hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa đƣợc nâng cấp nhƣ hiện tại thì cán bộ truyền thông rất khó để thực hiện các hình thức truyền thông đại chúng phổ biến nhƣ loa phóng thanh, tivi… đặc biệt là ở các thôn bản vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, việc quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng cũng chƣa đƣợc thực hiện tốt, mà điển hình là hệ thống loa phóng thanh. Các thông tin định tính góp phần làm sáng tỏ hơn luận điểm này:
“- Loa phóng thanh ở các thôn bản thì chƣa nhiều đâu.
- Anh có nắm đƣợc cụ thể số lƣợng loa phóng thanh ở các thôn bản không ạ?
- Không, anh chả nhớ đâu. Có báo cáo nào yêu cầu thống kê về cái này đâu”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 11-H-LB, nam, 38 tuổi)
“- Loa hỏng cũng nhiều.
- Mình có bao giờ thống kê số lƣợng loa đang còn hoạt động tốt và số lƣợng loa đang có vấn đề trục trặc không anh?
- Không. Cái đấy do địa phương tự quản lý chứ bọn anh không can thiệp.
- Ở các tuyến trên cũng không yêu cầu báo cáo về tình trạng hoạt động của hệ thống loa phóng thanh ạ?
83
- Không. Chú hỏi thế anh chịu”.
(Phỏng vấn sâu, cán bộ truyền thông, MS 08-H-YS, nam, 36 tuổi).
Các trích đoạn phỏng vấn sâu cán bộ truyền thông trên đây cho thấy việc kiểm soát số lƣợng cũng nhƣ tình trạng hoạt động của hệ thống loa phóng thanh vẫn chƣa được các ban ngành hữu quan chú ý. Mặc dù đây là phương tiện được dùng thường xuyên và phổ biến trong các cuộc hội họp tuyên truyền. Trả lời của cán bộ truyền thông cho thấy rằng không có bất cứ báo cáo nào về số lƣợng loa phóng thanh đƣợc lắp đặt tại các thôn xã. Và cũng không có báo cáo nào về tình trạng hoạt động (tốt hay đang có vấn đề trục trặc) của hệ thống loa phóng thanh. Lý giải của cán bộ truyền thông về tình trạng này là chƣa hợp lý: “Có báo cáo nào yêu cầu thống kê về cái này đâu”. Những trả lời trong trích đoạn phỏng vấn nói trên phần nào gợi mở rằng cán bộ truyền thông vẫn đang thực hiện công việc một cách cứng nhắc dựa trên những nội dung mà các báo cáo “yêu cầu”, chứ chƣa dựa trên sự cần thiết của tình hình thực tế tại địa phương.
Tiểu kết chương 4
Với những phân tích trong chương 4, chúng ta có thể thấy rằng các khó khăn hiện tại không chỉ là rào cản đối với sự tiếp cận chương trình truyền thông của người dân địa phương mà còn là thách thức đối với nhà cung cấp dịch vụ truyền thông khi thực hiện các chương trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số. Về phía người dân, vấn đề ngôn ngữ dường như là rào cản có nhiều ảnh hưởng hơn cả. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sự đa dạng trong tên gọi địa phương về HIV/AIDS cùng những tài liệu truyền thông thiếu nhạy cảm văn hóa cũng là các rào cản gây khó khăn cho người dân trong tiếp cận thông tin truyền thông. Những bất cập này tồn tại trong bối cảnh khó khăn chung là hệ thống cơ sở hạ tầng ở địa phương yếu kém và chƣa đƣợc nâng cấp. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ truyền thông có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở thì thiếu thốn và phân bổ không đều. Những rào cản và thách thức nói trên giống như bài toán khó giải đối với cả cán bộ truyền thông và người dân tộc thiểu số tại địa phương nghiên cứu. Điều này ngụ ý rằng hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số cần có sự đầu tƣ mạnh hơn cả về nguồn nhân lực, tài chính và cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
84
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam đƣợc thực hiện phần lớn ở miền Trung, và chƣa nhiều nghiên cứu thực hiện ở khu vực miền núi phía Bắc. Luận văn này đi vào tìm hiểu truyền thông phòng chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang – một trong 15 tỉnh trung du miền núi phía Bắc đƣợc xếp vào nhóm dự báo có nguy cơ tăng nhanh và tăng cao tỷ lệ người dân tộc thiểu số nhiễm HIV trong thời gian tới. Từ góc nhìn người dân, có thể thấy cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Tuyên Quang đã có những kiến thức thức đúng cơ bản về phòng chống HIV/AIDS, không giống nhƣ những diễn ngôn xã hội gần đây về tính
“agency” của đồng bào dân tộc thiểu số. Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vẫn còn những nhận thức hạn chế trong cộng đồng về bản chất bệnh, con đường lây truyền bệnh và cách phòng tránh lây bệnh. So sánh giữa hai nhóm tộc người Tày và Hmông tại địa phương cho thấy rằng địa bàn sinh tụ dường như là một yếu tố quan trọng tác động tới khả năng tiếp nhận thông tin truyền thông của người dân. Tuy nhiên, giữa nhóm tộc người thiểu số được coi là có ưu thế hơn về dân số, trình độ phát triển kinh tế - xã hội – chính trị (người Tày) và nhóm tộc người thiểu số được coi là yếu thế hơn (người Hmông) lại không thể hiện sự khác biệt rõ ràng trong mức độ nhận thức về phòng chống HIV/AIDS. Rất có thể sự hạn chế về số lƣợng mẫu nghiên cứu dẫn đến khả năng các kết quả phát hiện chƣa có tính đại diện cao. Những phân tích công tác truyền thông từ góc độ “nguồn” đã phần nào làm sáng tỏ hơn vấn đề này.
Thực tiễn hoạt động truyền thông tại địa phương bộc lộ nhiều hạn chế qua phân tích trả lời của cán bộ truyền thông. Những thực hành của đội ngũ cán bộ truyền thông ngoài việc tác động tới nhận thức của cộng đồng thì còn có khả năng dẫn đến tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số có HIV/AIDS.
Điển hình là thực hành “gán nhãn” nhằm sử dụng hình ảnh “phát khiếp” về người có HIV/AIDS trong quá trình tuyên truyền đã vô tình mở rộng sự ngăn cách với người dân tộc thiểu số có HIV/AIDS. Điều này có liên hệ trực tiếp với các quan
85
niệm đương thời về những hiện tượng tiêu cực được gọi chung bằng cụm từ “tệ nạn xã hội”. Sự phổ biến của diễn ngôn cho rằng HIVAIDS là tệ nạn xã hội góp phần xây dựng niềm tin rằng tình trạng có HIV/AIDS là một dạng “phi đạo đức” mà những người có HIV/AIDS là bằng chứng sống. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng sau khi thực hiện truyền thông tại địa phương, các đơn vị hữu quan chưa tổ chức đánh giá mức độ hiệu quả của hoạt động truyền thông. Nếu kiến thức, thái độ và hành vi của người dân tộc thiểu số tại địa phương là đối tượng tác động của các chương trình truyền thông, thì hiển nhiên cần đánh giá dựa trên những tiêu chí này. Tuy nhiên, công tác tổng kết hậu truyền thông của các đơn vị hữu quan tại địa phương mới chỉ dừng lại ở việc mô tả các việc đã làm đƣợc, nên hoạt động đánh giá hiệu quả truyền thông vẫn bị bỏ ngỏ. Thực tế cũng cho thấy quá trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại địa phương mang nặng tính một chiều. Các ý kiến phản hồi của người dân địa phương chƣa đƣợc nhà cung cấp dịch vụ truyền thông quan tâm. Đáng chú ý là không chỉ khâu tiếp nhận ý kiến phản hồi của người dân vẫn chưa được thực hiện mà có vẻ như các cán bộ truyền thông có khuynh hướng tráo đổi trách nhiệm giải trình giữa “người làm truyền thông” và “người được truyền thông”. Điều này khiến cho quy trình truyền thông phòng chống HIV/AIDS bị thiếu đi những “mắt xích” quan trọng để có thể tái thiết lập các chương trình truyền thông hiệu quả trong tương lai.
Cũng cần nhìn nhận vấn đề trong bối cảnh nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn ở địa phương còn thiếu thốn. Biểu hiện rõ ràng nhất của vấn đề này là tình trạng kiêm nhiệm trong phân bổ cán bộ. Sự quá tải khi một cán bộ phải đảm nhiệm truyền thông cho nhiều vấn đề khác nhau khiến họ thường ít có cơ hội nắm bắt kiến thức sâu về những nội dung công việc mà bản thân đảm nhiệm, dễ phạm phải sai lầm trong quá trình thực hiện truyền thông. Những phân tích từ góc độ “nguồn”
cũng cho thấy tình trạng phối hợp lỏng lẻo giữa các ban ngành hữu quan. Một dẫn chứng rõ ràng cho vấn đề này là tình trạng ùn đẩy trách nhiệm ở cán bộ truyền thông. Liên kết không chặt chẽ giữa các ban ngành hữu quan khiến cho hoạt động truyền thông đƣợc thực hiện cứng nhắc, không có sự xem xét đến tình hình của mỗi địa phương khác nhau. Bởi vậy mà có thể dẫn đến khả năng là chương trình truyền thông không phù hợp với đối tƣợng đích.
86
Đặt trong bối cảnh của địa phương nghiên cứu, ta thấy có nhiều rào cản đối với cộng đồng dân tộc thiểu số khi tiếp cận thông tin truyền thông; đồng thời cũng có nhiều thách thức đặt ra cho nhà cung cấp dịch vụ truyền thông. Trong đó, vấn đề ngôn ngữ được phân tích như là rào cản lớn đầu tiên đối với người dân. Tỷ lệ đồng bào sử dụng ngôn ngữ của nhóm tộc người địa phương vẫn chiếm đa số trong khi các tài liệu truyền thông lại đƣợc thiết kế hoàn toàn bằng tiếng Việt dẫn đến bất cập là người dân hoặc là không thể đọc – hiểu được, hoặc là đọc nhưng không hiểu, và cũng xảy ra cả tình trạng đọc hiểu đƣợc nhƣng không hào hứng với các tài liệu tiếng Việt. Còn cán bộ truyền thông thì lại “lừng chừng” khi nhận ra tính cần thiết của việc xây dựng tài liệu bằng tiếng địa phương nhưng không sẵn sàng tham gia vào hoạt động này. Liên quan trực tiếp đến vấn đề tài liệu truyền thông hoàn toàn đƣợc thiết kế bằng tiếng Việt thì sự đa dạng của tên gọi địa phương về HIV/AIDS cũng là một trong những vấn đề dường như gây khó khăn cho người dân khi tiếp cận thông tin truyền thông. Tính thiếu nhạy cảm văn hóa của tài liệu truyền thông cũng gây ra những bất cập không nhỏ. Trong khi đối tƣợng đích của hoạt động truyền thông là cộng đồng dân tộc thiểu số, nhƣng hình ảnh minh họa thì về sinh hoạt văn hóa của người Kinh. Điều này không tạo được hứng thú quan tâm từ phía người dân địa phương và đương nhiên mức độ tiếp nhận các thông tin truyền thông sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Một thách thức chung đối với người dân và nhà cung cấp dịch vụ truyền thông là hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém. Với những giao lộ sâu và xa, địa bàn sinh tụ của người dân ở những nơi hẻo lánh, điện lưới thiếu và yếu, hệ thống loa phóng thanh cũ và ít, thì cán bộ truyền thông gặp nhiều bất cập khi tiếp cận với người dân và triển khai các hoạt động truyền thông hiện đại; ngược lại, người dân địa phương cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiếp cận thông tin truyền thông. Đặc biệt, những rào cản và thách thức này lại tồn tại trong bối cảnh thiếu thốn cán bộ truyền thông có trình độ chuyên môn ở cấp cơ sở.
Ngoài các nguyên do khách quan thì những bất cập nói trên cho thấy hạn chế trong quản lý và triển khai thực hiện truyền thông của các ban ngành hữu quan. Để khắc phục những bất cập này, trước tiên cần phải thay đổi quy trình truyền thông
87
mang tính một chiều thành mô hình truyền thông hai chiều. Theo đó, cần thiết phải khuyến khích và tạo cơ hội để cán bộ truyền thông cấp cơ sở cũng như của người dân đƣợc sự tham gia vào quá trình thiết kế các tài liệu truyền thông. Mô hình truyền thông có sự tham gia của đối tƣợng đích (participatory communication model) đã đƣợc nhiều nghiên cứu cũng nhƣ chuyên gia phát triển xã hội khuyến nghị nhƣ là một mô mình mẫu mực trong công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS ở nhóm đối tƣợng yếu thế và nhạy cảm. Nó cho thấy tính tích cực khi có thể điều chỉnh sự phù hợp giữa thông tin truyền thông với đối tƣợng đích.
Những phân tích truyền thông nhìn từ góc độ “nguồn” dường như ngụ ý rằng nên có những nghiên cứu sâu về kiến thức, thái độ và thực hành của đội ngũ cán bộ truyền thông. Bấy lâu nay các nghiên cứu đặt sự chú ý rất lớn vào đối tượng là người dân nhưng lại thường bỏ quên yếu tố quan trọng là cán bộ truyền thông. Tình trạng thực hành gán nhãn phổ biến và diễn ngôn xã hội chƣa hợp lý của cán bộ truyền thông chỉ ra rằng cần có sự thận trọng khi sử dụng hình ảnh người có HIV/AIDS khi thực hiện truyền thông để tránh gây ra hệ lụy tiêu cực như là kỳ thị, phân biệt đối xử với người dân tộc thiểu số có HIV/AIDS. Thực tế một số địa phương trên cả nước đã rất thành công khi sử dụng hình ảnh về người có HIV/AIDS một cách phù hợp, thậm chí áp dụng mô hình truyền thông dựa vào đồng đẳng viên (những người có HIV/AIDS truyền thông phòng chống HIV/AIDS). Do vậy, việc sử dụng hình ảnh người có HIV/AIDS đƣợc cân nhắc cẩn trọng thì hiệu quả truyền thông hẳn sẽ đạt đƣợc. Cũng cần có quy định rõ ràng cũng nhƣ cơ chế giám sát việc phối hợp giữa các ban ngành hữu quan. Khi đã có quy định rõ ràng và đƣợc giám sát chặt chẽ, sẽ có khả năng hạn chế xảy ra tình trạng ùn đẩy trách nhiệm hay phối hợp lỏng lẻo giữa các ban ngành hữu quan nhƣ thực tế nghiên cứu đã chỉ ra. Tôi cũng cho rằng, nên có chính sách thu hút đồng thời phân bổ những cán bộ truyền thông có trình độ chuyên môn về làm việc tại các cấp cơ sở. Trong khi đó, có thể tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ truyền thông tại địa phương hiện giờ được đi học và đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn. Điều này giúp cho công tác truyền thông phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân tộc thiểu số sẽ trở nên chuyên nghiệp hơn và đạt đƣợc hiệu quả tốt hơn.
88
Xét về quy trình thực hiện, các kết quả từ nghiên cứu này cũng cho thấy rằng nhà cung cấp dịch vụ truyền thông và cán bộ truyền thông tại địa phương cần phải triển khai hoạt động đánh giá hiệu quả và thu thập ý kiến phản hồi của người dân trước cũng như sau truyền thông nhằm đánh giá được tác động thực sự của chương trình truyền thông tới đối tƣợng đích. Bổ sung thêm hai “mắt xích” quan trọng này giúp cho nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có thể nắm bắt đƣợc các hạn chế hiện hữu để có những điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn các chương trình truyền thông tiếp theo.
Về cơ sở hạ tầng, thực tế đƣợc chỉ ra từ nghiên cứu này cho thấy rõ ràng cần có những nâng cấp mang tính hệ thống và quy mô. Tuy nhiên, những nâng cấp này có thể mất thời gian lâu dài với sự đầu tƣ nguồn vốn lớn. Có những thay đổi nhỏ hơn mà các ban ngành hữu quan tại địa phương hoàn toàn có thể thực hiện được một cách khả thi mà không tốn nguồn kinh phí lớn cũng nhƣ không mất nhiều thời gian.Ví dụ nhƣ việc cải thiện hiện trạng của các bảng hiệu, biển hiệu tuyên truyền để thu hút sự chú ý của người dân. Cần xóa các nội dung tuyên truyền chung chung và quá cũ, làm mới các nội dung tuyên truyền này để các thông tin tới người dân cụ thể, chi tiết hơn. Di chuyển những bảng hiệu, biển hiệu tuyên truyền ở các vị trí vắng người tới những nơi tập trung đông người như chợ, ngã ba giao thông, trường học… Hay đối với hệ thống loa phóng thanh, cán bộ truyền thông tại địa phương có thể thống kê tình trạng hoạt động của chúng, sửa chữa những loa có trục trặc, di chuyển các loa để ở vị trí bất tiện nhƣ quá gần nhà dân, quá thấp dễ bị trẻ con nghịch… Những vấn đề thuộc về quản lý cơ sở vật chất này các ban ngành hữu quan tại địa phương đều có thể thực hiện khả thi trong khi chờ đợi một sự nâng cấp mang tính hệ thống và quy mô về cơ sở hạ tầng.
Một khuyến nghị cuối cùng nhƣng không kém phần quan trọng đó chính là thiết kế các tài liệu truyền thông có tính nhạy cảm văn hóa với đối tƣợng đích của chương trình truyền thông. Nhạy cảm văn hóa ở đây bao gồm cả vấn đề ngôn ngữ chữ viết và hình ảnh. Việc thiết kế các tài liệu được viết bằng tiếng địa phương và sử dụng hình ảnh minh họa là sinh hoạt văn hóa của đối tƣợng đích sẽ dẫn đến khả