1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn

108 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 108
Dung lượng 4,04 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (10)
  • 2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu (11)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (12)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (12)
  • 5. Đóng góp mới của nghiên cứu (12)
  • 6. Bố cục của bài nghiên cứu (13)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU TRƯỚC LIÊN QUAN TÁC ĐỘNG CỦA Ý KIẾN KTV ĐẾN THỊ GIÁ CỔ PHIẾU (15)
    • 1.1. Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền vững của lợi nhuận (15)
    • 1.2. Ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán đến việc ra quyết định của nhà đầu tư (16)
    • 1.3. Các nghiên cứu về phản ứng của thị trường thông qua thị giá cổ phiếu trước các loại ý kiến kiểm toán (19)
    • 1.4. Các nghiên cứu tại Việt Nam (24)
    • 1.5. Khoảng trống trong nghiên cứu (25)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT (14)
    • 2.1. Tổng quan về thị giá cổ phiếu, lợi nhuận bất thường, (27)
      • 2.1.1 Thị giá cổ phiếu (27)
      • 2.1.2 Lợi nhuận bất thường (27)
    • 2.2. Tổng quan về báo cáo kiểm toán và ý kiến của KTV (31)
      • 2.2.1. Khái niệm và vai trò của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính (31)
      • 2.2.2. Các loại ý kiến của Báo cáo kiểm toán (33)
    • 2.3. Lý thuyết nền cho nghiên cứu (38)
      • 2.3.1. Lý thuyết Ủy nhiệm (38)
      • 2.3.2. Lý thuyết thông tin bất cân xứng (39)
      • 2.3.3. Lý thuyết thị trường tài chính hiệu quả (41)
    • 2.4. Mô hình nghiên cứu lựa chọn (43)
  • Chương 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (14)
    • 3.1. Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu (46)
      • 3.1.1. Phương pháp nghiên cứu (46)
      • 3.1.2. Quy trình nghiên cứu (47)
    • 3.2. Mô hình nghiên cứu (49)
    • 3.3. Giả thiết nghiên cứu, lựa chọn mẫu và thu thập dữ liệu nghiên cứu (53)
      • 3.3.1. Giả thuyết nghiên cứu (53)
      • 3.3.2. Lựa chọn mẫu (53)
      • 3.3.3. Thu thập dữ liệu (54)
    • 3.4. Phương pháp kiểm định (55)
  • CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (14)
    • 4.1. Khái quát thị trường chứng khoán Việt Nam (58)
    • 4.2. Kết quả thống kê mô tả (60)
    • 4.3. Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần và thị giá cổ phiếu (67)
      • 4.3.1. Ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán dạng chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh đối với thị giá cổ phiếu (68)
      • 4.3.2. Ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán ngoại trừ đối với thị giá cổ phiếu (70)
      • 4.3.3. Ảnh hưởng ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần đến thị giá cổ phiếu các công ty niêm yết tại Việt Nam (74)
  • CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH (14)
    • 5.1. Kết luận và gợi ý chính sách (79)
      • 5.1.1. Kết luận (79)
      • 5.1.2. Gợi ý chính sách (81)
    • 5.2. Hạn chế của bài nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo (82)
      • 5.2.1. Hạn chế của bài nghiên cứu (82)
      • 5.2.2. Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo ....................................................... 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO (83)
  • PHỤ LỤC (88)

Nội dung

Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần đến thị giá cổ phiếu, phản ánh quyết định kinh tế của nhà đầu tư tại Việt Nam Mục tiêu chính là đo lường phản ứng của nhà đầu tư đối với các loại ý kiến kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành thông qua sự biến động của thị giá cổ phiếu Để đạt được mục tiêu này, nghiên cứu đặt ra các câu hỏi nghiên cứu cụ thể.

Thứ nhất, thị giá cổ phiếu thay đổi như thế nào trước ý kiến không phải dạng chấp nhận toàn phần

Thứ hai, thị giá cổ phiếu thay đổi như thế nào trước ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh.

Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, cụ thể là phương pháp nghiên cứu sự kiện theo mô hình cơ sở thị trường, nhằm phân tích sự biến động giá cổ phiếu thông qua việc đo lường lợi nhuận bất thường của các công ty xung quanh ngày công bố báo cáo tài chính năm được kiểm toán Dữ liệu nghiên cứu chủ yếu là thông tin sơ cấp từ báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội, cùng với giá cổ phiếu trong khoảng thời gian nhất định quanh ngày công bố Dữ liệu này sẽ được xử lý thủ công bằng bảng tính Excel và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS Cuối cùng, giả thuyết nghiên cứu sẽ được kiểm định thông qua phương pháp T-test.

Đóng góp mới của nghiên cứu

Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn tổng quan về ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán đối với thị giá cổ phiếu và lợi nhuận bất thường Bằng cách hệ thống hóa và trình bày các kết quả nghiên cứu trước đây, bài viết làm rõ giá trị của báo cáo kiểm toán, mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và thị giá cổ phiếu, cũng như phản ứng của thị trường đối với các ý kiến này.

Phương pháp nghiên cứu sự kiện, một kỹ thuật phổ biến trong lĩnh vực tài chính và kế toán, được sử dụng để phân tích phản ứng của thị trường đối với thông tin công bố rộng rãi Bài viết này sẽ giới thiệu chi tiết về phương pháp này, giúp người đọc hiểu rõ hơn về ứng dụng của nó trong nghiên cứu khoa học.

Nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của ý kiến kiểm toán viên (KTV) đối với giá cổ phiếu tại Việt Nam, cho thấy giá trị của báo cáo kiểm toán như một nguồn thông tin hữu ích cho người sử dụng báo cáo tài chính Kết quả này giúp người dùng có được những ước đoán hợp lý và đáng tin cậy về phản ứng của thị trường dựa trên thông tin từ báo cáo kiểm toán, hỗ trợ họ trong việc ra quyết định kinh tế.

Nghiên cứu này là một trong những nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam khảo sát mối quan hệ giữa các loại ý kiến kiểm toán và thị giá cổ phiếu của các công ty niêm yết Bằng cách đo lường lợi nhuận bất thường qua mô hình nghiên cứu sự kiện dựa trên thị trường, nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp cập nhật từ năm 2012 đến 2015 Kết quả của nghiên cứu phản ánh chính xác thực tế dựa trên số liệu của các công ty, không phụ thuộc vào quan điểm đánh giá của bất kỳ đối tượng nào.

Bố cục của bài nghiên cứu

Cấu trúc của bài nghiên cứu gồm 5 chương:

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu, bao gồm lý do chọn đề tài, mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, cũng như đối tượng và phạm vi nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu sẽ được trình bày rõ ràng, cùng với ý nghĩa của nghiên cứu đối với lĩnh vực liên quan.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC LIÊN QUAN

Chương này tổng hợp nghiên cứu trước đây về tác động của ý kiến kiểm toán đối với phản ứng của thị trường chứng khoán và quyết định đầu tư Nó cũng xem xét mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và lợi nhuận bất thường của cổ phiếu.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Bài viết trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến báo cáo kiểm toán tài chính, bao gồm các dạng ý kiến kiểm toán và các lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu Từ đó, tác giả lựa chọn mô hình nghiên cứu phù hợp để phân tích và đánh giá hiệu quả của báo cáo kiểm toán.

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bài viết này trình bày chi tiết về phương pháp nghiên cứu, bao gồm quy trình nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, điều kiện và quy trình chọn mẫu, cũng như cách thu thập nguồn dữ liệu đầu vào Ngoài ra, nó còn đề cập đến cách xác định giá trị các biến và các phương pháp kiểm định được sử dụng để hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu.

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Bài viết trình bày kết quả kỳ vọng lý thuyết về ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần đến thị giá cổ phiếu của các công ty niêm yết Sau đó, tác giả sẽ so sánh và thảo luận về sự khác biệt giữa kết quả kỳ vọng lý thuyết và kết quả thực tế đạt được từ mô hình.

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

Trình bày tóm tắt các kết quả mà nghiên cứu đạt được cùng với các hạn chế của nghiên cứu và đề xuất những hướng nghiên cứu tiếp theo.

TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU TRƯỚC LIÊN QUAN TÁC ĐỘNG CỦA Ý KIẾN KTV ĐẾN THỊ GIÁ CỔ PHIẾU

Mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tính bền vững của lợi nhuận

Tính bền vững trong lợi nhuận đề cập đến khả năng duy trì lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương lai, cho thấy rằng lợi nhuận hiện tại có thể dự đoán được lợi nhuận trong năm tiếp theo (Barth và Hutton, 2004; Jonas và Blanchet, 2000).

Nghiên cứu của Vichitsarawong và Pornupatham (2015) tại Italia đã chỉ ra rằng ý kiến kiểm toán có vai trò quan trọng trong việc dự đoán và đánh giá tính bền vững của lợi nhuận doanh nghiệp Nghiên cứu này phân tích dữ liệu từ các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Italia trong giai đoạn 2004-2008, cho thấy rằng những công ty nhận ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần thường có tính bền vững lợi nhuận thấp hơn so với các công ty nhận ý kiến chấp nhận toàn phần Cụ thể, các công ty nhận ý kiến ngoại trừ hoặc từ chối có sự bền vững lợi nhuận kém hơn so với những công ty được cấp ý kiến chấp nhận toàn phần Tuy nhiên, nghiên cứu không phát hiện sự khác biệt về mức độ bền vững lợi nhuận giữa hai loại ý kiến ngoại trừ và từ chối.

Ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán đến việc ra quyết định của nhà đầu tư

Firth (1980) đã tiến hành một nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi để kiểm tra xem quyết định cho vay của ngân hàng và phản ứng của nhà phân tích tín dụng có bị ảnh hưởng bởi ý kiến kiểm toán không phải là chấp nhận toàn phần hay không Bảng câu hỏi bao gồm báo cáo tài chính của một công ty giả định kèm theo các ý kiến kiểm toán khác nhau Kết quả cho thấy rằng, ý kiến không chấp nhận toàn phần, đặc biệt liên quan đến khả năng hoạt động liên tục, có tác động rõ rệt đến quyết định cho vay Firth nhấn mạnh rằng báo cáo kiểm toán cần cung cấp thông tin chi tiết về các hạn chế này để giúp người đọc đánh giá những rủi ro đáng kể trong quá trình ra quyết định.

Robertson (1988) thực hiện nghiên cứu để xác định ảnh hưởng của ý kiến không chấp nhận toàn phần đến phản ứng của các nhà phân tích tài chính Trong nghiên cứu, các nhà phân tích nhận báo cáo tài chính kèm theo báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần và được yêu cầu đánh giá độ tin cậy, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và mức độ đáp ứng thông tin cho phân tích Kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa các loại ý kiến không chấp nhận toàn phần Tuy nhiên, Robertson chỉ ra rằng ý kiến dạng ngoại trừ được đánh giá cao nhất về độ tin cậy, sự thỏa mãn và tính dễ hiểu.

Houghton (1983) đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm nhằm xác định ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán đến quyết định cho vay của các ngân hàng tại Úc Nghiên cứu tập trung vào việc so sánh nội dung thông tin giữa các loại báo cáo kiểm toán khác nhau, bao gồm báo cáo chấp nhận toàn phần và không chấp nhận toàn phần, cũng như sự khác biệt giữa có và không có báo cáo kiểm toán Tác giả đã thiết kế một bộ thông tin bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập, lưu chuyển tiền tệ, bản thuyết minh và hồ sơ xin vay ngân hàng, sau đó gửi bảng câu hỏi cho ba nhóm: nhóm có báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần, nhóm có báo cáo không chấp nhận toàn phần, và nhóm không có báo cáo kiểm toán Kết quả cho thấy không có ảnh hưởng đáng kể nào từ các loại báo cáo này đối với quyết định cho vay và số tiền cho vay Houghton cho rằng điều này xuất phát từ việc người phản hồi không nhận thức đầy đủ về vai trò của báo cáo kiểm toán, cho rằng thông tin trong báo cáo không quan trọng và các thông tin khác có giá trị hơn.

Nghiên cứu của Gul (1990) đã điều tra tác động của hai loại báo cáo kiểm toán - báo cáo chấp nhận toàn phần và báo cáo ngoại trừ - đối với giá cổ phiếu ước tính Ông đã thực hiện thí nghiệm bằng cách gửi báo cáo tài chính kèm theo các loại báo cáo kiểm toán khác nhau đến nhân viên tín dụng ngân hàng, yêu cầu họ đưa ra giá trị thích hợp cho thị giá cổ phiếu Phân tích dữ liệu bằng phương pháp ANOVA cho thấy báo cáo kiểm toán dạng ngoại trừ có ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu của công ty.

Bessell và các cộng sự (2003) đã tiến hành một nghiên cứu thực nghiệm nhằm khảo sát quan điểm của kiểm toán viên về giả định hoạt động liên tục trong báo cáo kiểm toán điều chỉnh tại Úc Nghiên cứu này đã thu thập ý kiến từ các chuyên gia trong lĩnh vực kiểm toán.

Nghiên cứu với 500 thành viên Viện tài chính ngân hàng thông qua bảng câu hỏi và các báo cáo kiểm toán cho thấy rằng các vấn đề nhấn mạnh và ý kiến ngoại trừ vẫn chứa đựng thông tin quan trọng ngay cả khi công ty không gặp khó khăn tài chính Tuy nhiên, trong trường hợp công ty gặp khó khăn tài chính, báo cáo kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần không làm tăng đáng kể nhận thức về rủi ro hoặc ảnh hưởng đến quyết định ra quyết định.

Nghiên cứu của Guillamon (2003) điều tra tầm quan trọng của báo cáo kiểm toán trong quyết định đầu tư của công ty môi giới và quyết định cho vay của tổ chức tín dụng Mục tiêu chính là tìm hiểu ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán đối với các quyết định tài chính Nhà nghiên cứu đã sử dụng bảng câu hỏi để thu thập thông tin từ các đối tượng khảo sát về các nguồn thông tin họ xem xét khi ra quyết định đầu tư Kết quả cho thấy báo cáo kiểm toán là một nguồn thông tin hữu ích trong quá trình này.

Lin và cộng sự (2003) đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm để điều tra phản ứng của người sử dụng đối với báo cáo kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần tại Trung Quốc Nghiên cứu đã khảo sát ý kiến của nhà đầu tư và nhân viên tín dụng về việc liệu quyết định của họ có bị ảnh hưởng bởi báo cáo tài chính kèm theo các loại báo cáo kiểm toán khác nhau hay không Kết quả cho thấy rằng báo cáo kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần có tác động tiêu cực đến quyết định của nhà đầu tư và nhân viên tín dụng, đồng thời không có sự khác biệt đáng kể giữa các loại ý kiến trong nhóm này.

Các nghiên cứu về phản ứng của thị trường thông qua thị giá cổ phiếu trước các loại ý kiến kiểm toán

Baskin (1972) đã áp dụng mô hình thị trường để nghiên cứu tác động của ý kiến kiểm toán dạng ngoại trừ đối với quyết định của nhà đầu tư Kết quả cho thấy rằng báo cáo kiểm toán ngoại trừ có ảnh hưởng hạn chế đến quyết định đầu tư, đồng thời cho thấy giá trị thông tin của loại báo cáo này là thấp.

Firth (1978) đã nghiên cứu ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần đối với thị giá cổ phiếu và quyết định đầu tư, với mẫu gồm 247 công ty tại Anh Quốc Kết quả cho thấy rằng thị giá cổ phiếu bị tác động ngay khi loại ý kiến này được công bố, đồng thời báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần chứa đựng thông tin quan trọng ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư Ngoài ra, các nhà đầu tư có phản ứng khác nhau đối với từng loại báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần.

Nghiên cứu của Dodd et al (1984) đã xem xét tác động của báo cáo kiểm toán dạng tùy thuộc vào và từ chối đưa ra ý kiến đến thị giá cổ phiếu Kết quả cho thấy các công ty có lợi nhuận bất thường âm thường nhận được ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần, với mức độ lợi nhuận bất thường khác nhau tùy thuộc vào từng loại ý kiến Tuy nhiên, nghiên cứu cung cấp ít bằng chứng cho thấy thị giá cổ phiếu bị ảnh hưởng khi báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần được công bố Điều này chỉ ra rằng tác động của các báo cáo kiểm toán này đến thị giá cổ phiếu là khá hạn chế, nhưng không có nghĩa là chúng không có ý nghĩa hay không cần thiết.

Ameen et al (1994) đã áp dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện để khảo sát tác động của ý kiến kiểm toán không hoàn toàn chấp nhận đến giá cổ phiếu của các công ty nhỏ trên thị trường chứng khoán phi tập trung.

Nghiên cứu của Ameen tại Mỹ đã phân tích 177 báo cáo kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần từ năm 1974 đến 1988 Sử dụng mô hình thị trường để tính toán lợi nhuận bất thường, nghiên cứu cho thấy thị trường có phản ứng tiêu cực trước ngày công bố các báo cáo này, nhưng không có phản ứng trong cửa sổ sự kiện Kết quả cho thấy sự ảnh hưởng của các báo cáo kiểm toán đến tâm lý nhà đầu tư.

Nghiên cứu của Chen et al (2000) phân tích phản ứng của thị trường chứng khoán Thượng Hải đối với ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần trong giai đoạn 1995-1997 Mục tiêu là khảo sát tác động của ý kiến chấp nhận toàn phần và không chấp nhận toàn phần đến giá cổ phiếu, với mẫu nghiên cứu gồm 844 quan sát Kết quả cho thấy phản ứng của thị trường là tiêu cực, với giá cổ phiếu của các công ty nhận ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần thường giảm Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể trong phản ứng thị trường đối với ý kiến chấp nhận toàn phần và ý kiến kiểm soát có đoạn giải thích mở rộng.

Nghiên cứu của Soltani (2000) nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và thị giá cổ phiếu của các công ty niêm yết tại Pháp đã được thực hiện trên 543 công ty trong giai đoạn 1986-1995 Nghiên cứu sử dụng phương pháp đo lường lợi nhuận bất thường với cửa sổ sự kiện 15 ngày trước và sau khi công bố báo cáo kiểm toán Kết quả cho thấy các công ty nhận báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần có lợi nhuận bất thường âm đáng kể, trong khi các công ty nhận báo cáo chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh cũng cho thấy sự tương tự Điều này chứng tỏ rằng báo cáo kiểm toán mang lại giá trị thông tin quan trọng cho nhà đầu tư.

Nghiên cứu của Martinez et al (2004) về phản ứng của thị trường vốn Tây Ban Nha đối với báo cáo kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần, sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện, đã chỉ ra rằng không có mối quan hệ nào giữa ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần và thị giá cổ phiếu trong giai đoạn 1992-1995.

Al-Fayoumi (2007) tiến hành nghiên cứu điều tra phản ứng của thị trường đối với ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần ở thị trường Jordan

Nghiên cứu của Al-Fayoumi đã phân tích sự thay đổi thị giá cổ phiếu và lợi nhuận của 92 công ty tại Jordan trong giai đoạn 2000-2005, liên quan đến ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần Sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện, tác giả đã đo lường phản ứng của thị trường bằng cách tính toán lợi nhuận bất thường trong khoảng thời gian 7 ngày trước và sau khi công bố báo cáo tài chính Kết quả cho thấy ý kiến kiểm toán không chấp nhận toàn phần không có ảnh hưởng đáng kể đến thị giá cổ phiếu và lợi nhuận tại thời điểm công bố, cũng như trong suốt giai đoạn sự kiện Hơn nữa, nghiên cứu chỉ ra rằng người sử dụng báo cáo kiểm toán chưa hiểu rõ về ý nghĩa và giá trị của các báo cáo này.

Czernkowski và cộng sự (2010) đã kiểm định phản ứng của thị trường đối với các ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Thượng Hải, trong bối cảnh Trung Quốc thực hiện các thay đổi pháp lý quan trọng nhằm tăng cường niềm tin của nhà đầu tư vào chức năng kiểm toán Nghiên cứu sử dụng mẫu 3,218 quan sát từ năm 1999 đến 2003 và điều chỉnh mô hình phản ứng thị trường dựa trên nghiên cứu trước đó của Chen và cộng sự (2000) bằng cách thêm các biến đặc thù tổ chức và kiểm soát thông tin gây nhiễu Tuy nhiên, nghiên cứu không phát hiện bằng chứng cho thấy ý kiến kiểm toán có giá trị thông tin tại Trung Quốc, do đó không thể hiện rõ phản ứng của thị trường trước các ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần.

Giuseppe Ianniello và Giuseppe Galloppo (2015) đã nghiên cứu phản ứng của nhà đầu tư tại Italia đối với các ý kiến kiểm toán không phải chấp nhận toàn phần và ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh liên quan đến khả năng hoạt động liên tục và tình hình tài chính kém Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện, tập trung vào cửa sổ sự kiện ngắn (1 ngày trước và sau sự kiện, 3, 5 ngày sau sự kiện) để xác định phản ứng của thị trường chứng khoán khi báo cáo kiểm toán được công bố, thông qua việc tính toán lợi nhuận bất thường của cổ phiếu Dựa trên giả định về thị trường hiệu quả của Fama (1996), nghiên cứu lấy ngày sự kiện là ngày kiểm toán viên ký báo cáo và sử dụng mẫu quan sát gồm 97 công ty từ tổng số 1,125 công ty, thu thập dữ liệu từ năm 2007-2010 Kết quả cho thấy báo cáo kiểm toán chứa thông tin giá trị cho nhà đầu tư, với ý kiến không phải chấp nhận toàn phần có tác động tiêu cực đến thị giá cổ phiếu, trong khi ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh lại ảnh hưởng tích cực đến giá cổ phiếu.

Nghiên cứu của Anulasiri và cộng sự (2015) tại thị trường Colombo, Sri Lanka, nhằm xem xét tác động của ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần đến thị giá cổ phiếu Sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện với cửa sổ sự kiện 4 ngày trước và sau khi công bố báo cáo kiểm toán, nghiên cứu đã phân tích 26 quan sát từ 87 báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần trong giai đoạn 2010-2014 Kết quả T-test cho thấy rằng báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần có tác động tiêu cực đến thị giá cổ phiếu, tuy nhiên ảnh hưởng này không đáng kể, dẫn đến kết luận rằng báo cáo này không mang giá trị thông tin.

Moradi và các cộng sự (2011) đã tiến hành nghiên cứu tác động của ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần đến thị giá cổ phiếu tại Iran, sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện với cửa sổ 5 ngày trước và sau khi công bố báo cáo kiểm toán, trên mẫu 103 báo cáo trong giai đoạn 2005-2009 Kết quả cho thấy rằng báo cáo kiểm toán không chấp nhận toàn phần không có ảnh hưởng đáng kể đến thị giá cổ phiếu, cho thấy rằng người sử dụng báo cáo này không nhận thức đầy đủ giá trị và ý nghĩa của nó tại Iran.

Các nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt trong ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán đến quyết định kinh tế thông qua sự thay đổi thị giá cổ phiếu Một số nghiên cứu chỉ ra rằng ý kiến kiểm toán không tác động đến quyết định của các nhóm lợi ích, trong khi nhiều nghiên cứu khác khẳng định rằng ý kiến kiểm toán có ảnh hưởng rõ rệt đến thị giá cổ phiếu, từ đó tác động đến quyết định đầu tư Hơn nữa, một số nghiên cứu còn chỉ ra sự khác biệt trong nhận thức và mức độ tin tưởng của người sử dụng đối với báo cáo kiểm toán.

Nguyên nhân của vấn đề này chủ yếu xuất phát từ hai yếu tố: Thứ nhất, nhiều nghiên cứu thực nghiệm không dựa trên thực tiễn mà chỉ dựa vào lý thuyết, bỏ qua các yếu tố như thời gian và hoàn cảnh cụ thể, cũng như những tác động khác đến nhận thức của người sử dụng báo cáo tài chính Thứ hai, trong các nghiên cứu dựa trên cơ sở thị trường, việc tách biệt thông tin về yếu tố không chắc chắn trong báo cáo tài chính với thông tin tương tự trong báo cáo kiểm toán là rất khó khăn Thêm vào đó, sự nhiễu loạn từ các thông tin khác công bố cùng thời điểm với báo cáo kiểm toán và khó khăn trong việc xác định thời điểm thị trường tiếp nhận báo cáo cũng là những nguyên nhân quan trọng.

Các nghiên cứu tại Việt Nam

Tại Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã chú trọng đến vai trò và giá trị thông tin của báo cáo kiểm toán đối với người sử dụng báo cáo tài chính Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này đã được thực hiện.

Nguyễn Văn Hương (2010), Trần Khánh Lâm (2011), Nguyễn Thiên Tú

(2012), Hà Xuân Thạch (2013), Tạ Duy Khánh (2015), Dương Quốc Quang (2015), Huỳnh Thị Thiên Thảo (2015)

Các nhà nghiên cứu tại Việt Nam đang chú trọng vào việc nghiên cứu các chủ đề liên quan đến báo cáo kiểm toán nhằm nâng cao chất lượng của báo cáo này Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hương (2010) và Trần Khánh Lâm (2011) đã chỉ ra tầm quan trọng của việc cải thiện chất lượng thông tin trong báo cáo kiểm toán, theo đó, Hà Xuân Thạch cũng nhấn mạnh vai trò của việc nâng cao chất lượng thông tin trên báo cáo kiểm toán.

(2013), Dương Quốc Quang (2015)) Xem xét mối quan hệ giữa ý kiến kiểm toán và tình bền vững của thu nhập (Huỳnh Thị Thiên Thảo, 2015).

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Tổng quan về thị giá cổ phiếu, lợi nhuận bất thường,

Thị giá cổ phiếu, hay giá trị thị trường của cổ phiếu, là mức giá mà người mua và người bán xác lập khi giao dịch Đây cũng là thước đo giá trị thị trường của doanh nghiệp, thường được quyết định bởi kỳ vọng của nhà đầu tư Nếu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và có tiềm năng tăng trưởng cao, giá trị cổ phiếu sẽ tăng, dẫn đến giá trị thị trường của doanh nghiệp cũng tăng Do đó, thị giá cổ phiếu là một trong những chỉ số quan trọng để đánh giá giá trị của doanh nghiệp.

Giá trị thị trường của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, đặc biệt là thông tin công bố ra ngoài thị trường Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra mối liên hệ giữa thông tin như trả cổ tức và thâu tóm, sáp nhập với giá chứng khoán Việc đo lường tác động của thông tin này đến giá trị doanh nghiệp thường được thực hiện thông qua biến động thị giá cổ phiếu Để đánh giá phản ứng của thị giá cổ phiếu đối với các thông tin công bố, cần tính toán và đo lường các yếu tố liên quan đến thị giá cổ phiếu.

2.1.2 Lợi nhuận bất thường Đối với dạng nghiên cứu sự kiện nói chung, nghiên cứu này nói riêng, xem xét ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán đối với thị giá cổ phiếu, cần phải tính được lợi nhuận bất thường

Lợi nhuận bất thường (Abnormal return) được định nghĩa bởi Fama và cộng sự (1970) là sự chênh lệch giữa thị giá cổ phiếu và mức giá thông thường, chịu ảnh hưởng từ thông tin trên báo cáo tài chính và thông tin chưa công bố Nó thể hiện sự khác biệt giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận kỳ vọng Có nhiều kỹ thuật để tính toán lợi nhuận bất thường, bao gồm mô hình lợi nhuận bình quân, mô hình lợi nhuận điều chỉnh theo thị trường, mô hình định giá tài sản (CAPM) và mô hình thị trường Trong số đó, mô hình thị trường được sử dụng phổ biến nhất, dựa trên lợi nhuận thực tế của các chỉ số thị trường và mối tương quan giữa chỉ số thị giá cổ phiếu và chỉ số thị trường Công thức tính lợi nhuận bất thường của một cổ phiếu là một phần quan trọng trong phân tích tài chính.

Lợi nhuận bất thường = Lợi nhuận thực tế - Lợi nhuận kỳ vọng

Lợi nhuận thực tế (Actual return):

Lợi nhuận thực tế của cổ phiếu là số tiền lãi hoặc lỗ mà nhà đầu tư nhận được so với giá trị đầu tư ban đầu khi bán cổ phiếu Công thức tính lợi nhuận thực tế giúp nhà đầu tư đánh giá hiệu quả đầu tư của mình.

Lợi nhuận thực tế của cổ phiếu i vào ngày t được tính bằng công thức: 𝑅 𝑖,𝑡 = (𝑃 𝑖,𝑡 + 𝐷 𝑖,𝑡 - 𝑃 𝑖,𝑡−1) / 𝑃 𝑖,𝑡−1 Trong đó, 𝑃 𝑖,𝑡 là giá đóng cửa cổ phiếu i vào ngày t, 𝐷 𝑖,𝑡 là cổ tức cổ phiếu i vào ngày t, và 𝑃 𝑖,𝑡−1 là giá đóng cửa cổ phiếu i vào ngày t-1 Tuy nhiên, do sự khác biệt về thời gian công bố cổ tức, cổ tức được giả định bằng không khi tính toán lợi nhuận thực tế của cổ phiếu.

Lợi nhuận kỳ vọng (Expected return):

Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà nhà đầu tư dự đoán sẽ nhận được trong điều kiện không có sự kiện bất ngờ nào xảy ra (MacKinlay, 1997) Trong nghiên cứu này, lợi nhuận kỳ vọng được hiểu là lợi nhuận dự kiến trong giai đoạn trước khi công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán.

Theo MacKinlay (1997), có nhiều phương pháp để tính lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán, được chia thành hai nhóm: thống kê và kinh tế Các mô hình thống kê dựa trên giả định rằng sự thay đổi suất sinh lợi tài sản không phụ thuộc vào lý luận kinh tế Ngược lại, mô hình kinh tế dựa trên hành vi của nhà đầu tư mà không cần giả định thống kê Tuy nhiên, việc áp dụng mô hình kinh tế trong thực tế vẫn cần gắn liền với giả định thống kê để đạt được độ chính xác cao hơn trong tính toán suất sinh lợi Các mô hình thống kê thường giả định rằng suất sinh lợi tài sản có phân phối chuẩn, độc lập và có thể xác định theo thời gian.

Có hai mô hình xác định suất sinh lợi kỳ vọng của tài sản dựa trên giả định thống kê (Mackinlay, 1997) Mô hình đầu tiên là mô hình suất sinh lợi trung bình hằng số, được coi là đơn giản nhất, với kết quả tương tự như các mô hình phức tạp hơn (Brown and Warner, 1980, 1985) Mô hình này giả định rằng suất sinh lợi trung bình của cổ phiếu không thay đổi theo thời gian, nhưng hạn chế của nó là làm tăng phương sai của suất sinh lợi, ảnh hưởng đến kết luận Mô hình thứ hai là mô hình thị trường, mô hình này phân tích mối tương quan giữa suất sinh lợi của một chứng khoán cụ thể và danh mục đầu tư thị trường.

Mô hình này khắc phục nhược điểm của mô hình suất sinh lợi trung bình hằng số bằng cách loại bỏ yếu tố suất sinh lợi liên quan đến sự biến động của thị trường, từ đó làm giảm phương sai của lợi nhuận bất thường Lợi ích của mô hình thị trường tỷ lệ thuận với giá trị R² trong hồi quy, với R² càng cao thì phương sai lợi nhuận bất thường càng giảm.

Với mô hình thị trường, định lợi nhuận kỳ vọng của từng loại cổ phiếu được xác định bằng công thức sau:

Lợi nhuận kỳ vọng của cổ phiếu i tại ngày t được xác định bởi công thức ER i,t = α i + β i (R m,t), trong đó ER i,t là lợi nhuận kỳ vọng, α i và β i là các hệ số ước lượng thông qua phương pháp hồi quy OLS trong khoảng thời gian 3 tháng (100 ngày giao dịch) với lợi nhuận tính hàng ngày Lợi nhuận của thị trường vào ngày t, ký hiệu là R m,t, được tính bằng logarit tự nhiên của chỉ số VNINDEX hoặc HNXINDEX tại ngày t chia cho chỉ số tại ngày t-1.

𝑴𝑷 𝒊,𝒕−𝟏 Trong đó: 𝑀𝑃 𝑖,𝑡 – Chỉ số giá thị trường VNINDEX hoặc HNXINDEX của cổ phiếu i vào ngày t, 𝑀𝑃 𝑖,𝑡−1 - chỉ số giá thị trường VNINDEX hoặc HNXINDEX của cổ phiếu i vào ngày t-1

Lợi nhuận bất thường trung bình (Average abnormal return):

Lợi nhuận bất thường trung bình được tính để loại bỏ ảnh hưởng của các yếu tố gây nhiễu đến sự biến động giá cổ phiếu, không chỉ từ báo cáo kiểm toán Công thức tính lợi nhuận này giúp xác định chính xác hơn sự thay đổi giá cổ phiếu trong bối cảnh tài chính.

Trong đó: N là tổng các quan sát

Lợi nhuận bất thường trung bình tích lũy (The cumulative average abnormal return):

Theo Dissabandara (2010), lợi nhuận bất thường xuất hiện khi thông tin bị rò rỉ, tức là một số ít người trên thị trường biết trước thông tin trước khi nó được công bố chính thức Trong trường hợp báo cáo kiểm toán, chỉ số lợi nhuận bất thường sẽ kém thuyết phục trong việc đo lường tác động của ý kiến kiểm toán đến giá cổ phiếu Do đó, lợi nhuận trung bình bất thường tích lũy (CAAR) trở thành chỉ tiêu đáng tin cậy, phản ánh toàn bộ thay đổi trong giá cổ phiếu của tất cả các công ty trong cửa sổ sự kiện CAAR được sử dụng để xác định ảnh hưởng tổng thể của ý kiến kiểm toán đối với giá cổ phiếu trong suốt thời gian này.

Mô hình thị trường mang lại nhiều ưu điểm trong việc tính toán lợi nhuận kỳ vọng của cổ phiếu và được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về phản ứng của thị giá cổ phiếu đối với ý kiến kiểm toán, như các nghiên cứu của Chen et al (2000), Al-Fayoumi (2007), Czernkowski và cộng sự (2010), Galloppo (2015), Anulasiri và cộng sự (2015), Moradi và cộng sự (2011) Do đó, để đạt được mục tiêu nghiên cứu về ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán đến thị giá cổ phiếu của các công ty niêm yết tại Việt Nam, tác giả đã áp dụng mô hình thị trường để đo lường lợi nhuận kỳ vọng và lợi nhuận bất thường của cổ phiếu.

Tổng quan về báo cáo kiểm toán và ý kiến của KTV

Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), kiểm toán được định nghĩa là quá trình mà kiểm toán viên độc lập thực hiện việc kiểm tra và đưa ra ý kiến về tính chính xác của các báo cáo tài chính.

Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng về thông tin để xác định và báo cáo sự phù hợp của thông tin đó với các tiêu chuẩn đã được thiết lập Để đảm bảo tính chính xác và khách quan, quá trình kiểm toán cần được thực hiện bởi các kiểm toán viên có đủ năng lực và độc lập.

Kết thúc quá trình kiểm toán, kiểm toán viên cần trình bày ý kiến về báo cáo tài chính và những công việc đã thực hiện, thông qua một văn bản để các bên liên quan sử dụng Văn bản này xác nhận liệu báo cáo tài chính có tuân thủ các khuôn khổ và chuẩn mực đã được thiết lập hay không.

Kiểm toán báo cáo tài chính là quá trình mà kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán thực hiện để đánh giá tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính Hoạt động này được thực hiện theo các quy định của chuẩn mực kiểm toán, cụ thể là Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12, nhằm đảm bảo các khía cạnh trọng yếu của báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán được kiểm tra một cách chính xác và đáng tin cậy.

Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là tăng cường độ tin cậy của báo cáo cho người sử dụng, thông qua việc kiểm toán viên đánh giá xem báo cáo có được lập đúng theo các quy định và tiêu chuẩn hiện hành hay không Kiểm toán viên cần xác nhận rằng báo cáo tài chính được trình bày trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu Việc thực hiện kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các quy định đạo đức nghề nghiệp giúp hình thành ý kiến kiểm toán, được thể hiện trong báo cáo kiểm toán Báo cáo này không chỉ là kết quả của quá trình kiểm toán mà còn là tài liệu quan trọng cung cấp thông tin đáng tin cậy cho các đối tượng sử dụng trong việc ra quyết định kinh tế.

Báo cáo kiểm toán là tài liệu quan trọng không thể thiếu, đi kèm với báo cáo tài chính hàng năm của các công ty niêm yết khi công bố thông tin tài chính.

Sở Giao dịch chứng khoán

2.2.2 Các loại ý kiến của Báo cáo kiểm toán

Với mục tiêu hợp tác và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đa dạng hóa hoạt động kinh tế tài chính, đặc biệt sau khi gia nhập WTO Việc tiếp thu và học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm toán và kế toán, là rất quan trọng Để hòa hợp với tiêu chuẩn quốc tế, Bộ Tài chính đã ban hành 37 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam vào ngày 06/12/2012, có hiệu lực từ 01/01/2014 Bài viết này sẽ trình bày các loại ý kiến của báo cáo kiểm toán theo hai giai đoạn thay đổi hệ thống chuẩn mực kiểm toán.

Theo Quyết định số 120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã được ban hành, nhưng đã hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2014.

Theo đoạn 34 VSA 700 trước đây, căn cứ kết quả kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra một trong các loại ý kiến về báo cáo tài chính, như sau:

- Ý kiến chấp nhận toàn phần;

- Ý kiến chấp nhận từng phần;

- Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến);

- Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược);

Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra khi kiểm toán viên và công ty kiểm toán xác nhận rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý các khía cạnh trọng yếu của tình hình tài chính đơn vị, đồng thời tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành Điều này cũng ngụ ý rằng mọi thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được đánh giá đầy đủ và được nêu rõ trong phần thuyết minh của báo cáo tài chính.

Kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể xác định rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý các khía cạnh trọng yếu của tình hình tài chính, miễn là không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tuỳ thuộc được nêu trong báo cáo kiểm toán Nếu kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần do không đồng ý với Giám đốc hoặc vì công việc kiểm toán bị giới hạn, họ sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, thể hiện bằng thuật ngữ “ngoại trừ” Trong trường hợp có yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn, như vấn đề liên quan đến tính liên tục hoạt động kinh doanh, kiểm toán viên cũng có thể đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần Ý kiến từ chối hoặc không thể đưa ra ý kiến xảy ra khi giới hạn phạm vi kiểm toán quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến nhiều khoản mục, khiến kiểm toán viên không thể thu thập đủ bằng chứng Cuối cùng, ý kiến không chấp nhận được đưa ra khi có vấn đề không thống nhất với Giám đốc có ảnh hưởng lớn đến báo cáo tài chính, đến mức kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần không đủ để phản ánh tính chất và mức độ sai sót trọng yếu.

Kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần nếu có khả năng xảy ra các tình huống trọng yếu ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.

Phạm vi công việc kiểm toán bị hạn chế;

Đơn vị kiểm toán và đơn vị được kiểm toán có thể không đồng ý về việc lựa chọn và áp dụng chuẩn mực kế toán, cũng như chế độ kế toán Điều này có thể dẫn đến sự không phù hợp trong các thông tin ghi nhận trong báo cáo tài chính và phần thuyết minh báo cáo tài chính.

Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành được ban hành kèm theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014.

Theo hệ thống chuẩn mực kiểm toán hiện hành, quy định về ý kiến của báo cáo kiểm toán được trình bày trong 3 chuẩn mực, đó là:

- VSA 700: Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính

- VSA 705: Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần

Theo chuẩn mực VSA 700, trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần nêu rõ các vấn đề cần nhấn mạnh và các vấn đề khác Cụ thể, tại đoạn 17, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần khi kết luận rằng báo cáo tài chính đã được lập một cách phù hợp, trên các khía cạnh trọng yếu, với khuôn khổ lập và trình bày báo cáo tài chính áp dụng.

Kiểm toán viên cần đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong báo cáo kiểm toán, theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 705, trong những trường hợp cụ thể.

Lý thuyết nền cho nghiên cứu

Lý thuyết ủy nhiệm, được phát triển bởi Jensen và Meckling vào năm 1976 và sau đó bởi Jensen vào năm 1986, nghiên cứu mối quan hệ giữa các chủ sở hữu và nhà quản lý Lý thuyết này chỉ ra rằng khi lợi ích của nhà quản lý không trùng khớp với lợi ích của chủ sở hữu, các nhà quản lý có thể đưa ra quyết định thiên về lợi ích cá nhân thay vì lợi ích của công ty và chủ sở hữu.

Lý thuyết ủy nhiệm tập trung vào hai vấn đề chính trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người đại diện Thứ nhất, sự mâu thuẫn về mục tiêu giữa hai bên dẫn đến khó khăn trong việc giám sát hành động của người đại diện, khiến chủ sở hữu không thể xác định tính phù hợp của các hành vi này Thứ hai, việc chia sẻ rủi ro trở nên phức tạp khi chủ sở hữu và người đại diện có quan điểm khác nhau về rủi ro, dẫn đến những hành động và ứng xử khác biệt trong việc đối phó với rủi ro đó.

Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền điều hành dẫn đến vấn đề khi một người hoạt động vì lợi ích của người khác Thực tế cho thấy, người đại diện thường có xu hướng tư lợi hơn là hành động vì lợi ích của chủ sở hữu và cổ đông.

Vấn đề chính phát sinh từ sự tách biệt giữa quyền sở hữu và điều hành, dẫn đến thông tin bất cân xứng, trong đó người đại diện có lợi thế thông tin hơn chủ sở hữu, dễ dàng thực hiện hành vi tư lợi Việc giám sát hành động của người đại diện gặp nhiều khó khăn và tốn kém Để hạn chế tình trạng này, cần phát sinh chi phí đại diện nhằm giám sát và định hướng người đại diện thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích của chủ sở hữu và cổ đông Giải pháp tối ưu là thuê bên thứ ba độc lập để giám sát và đánh giá hoạt động của người đại diện, sử dụng kết quả từ kiểm toán độc lập.

Kiểm toán và báo cáo kiểm toán đóng vai trò quan trọng không chỉ trong thị trường tài chính mà còn trong quản lý và giám sát, giúp giảm chi phí đại diện và cung cấp thông tin tài chính chính xác cho nhà đầu tư (Wallace, 2004) Đối với các công ty niêm yết, mối quan hệ giữa cổ đông và người đại diện càng trở nên rõ ràng, do đó, báo cáo tài chính của họ phải được kiểm toán bởi công ty kiểm toán độc lập trước khi công bố lên Sở giao dịch chứng khoán Vì vậy, báo cáo kiểm toán trở thành phần không thể thiếu trong báo cáo tài chính dành cho cổ đông, nhà đầu tư và các bên liên quan.

2.3.2 Lý thuyết thông tin bất cân xứng

Lý thuyết thông tin bất cân xứng, được giới thiệu bởi Akerlof vào năm 1970, chỉ ra rằng sự khác biệt về thông tin giữa các bên trong thị trường có thể tạo ra bất lợi cho một số đối tượng Khi một bên nắm giữ nhiều thông tin hơn, họ sẽ có lợi thế trong các giao dịch, dẫn đến những kết quả không công bằng trong thị trường.

Bất cân xứng thông tin xảy ra khi các bên tham gia giao dịch cố tình che giấu thông tin, khiến người mua không có thông tin chính xác và đầy đủ, dẫn đến việc trả giá thấp hơn giá trị thực của hàng hóa Hệ quả là người bán thiếu động lực sản xuất hàng hóa có giá trị, thay vào đó chỉ cung cấp sản phẩm trung bình, dẫn đến thị trường chỉ còn lại những sản phẩm chất lượng kém Tình trạng này tạo ra sự lựa chọn đối kháng (adverse selection) cho cả hai bên, đồng thời gây ra rủi ro đạo đức (moral hazard) và độc quyền thông tin (information monopoly).

Thông tin được xem là tài sản quý giá đối với nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán (TTCK), và việc sở hữu thông tin nhanh chóng, chính xác mang lại lợi thế lớn trong đầu tư Tuy nhiên, không phải tất cả nhà đầu tư đều có cơ hội tiếp cận thông tin với số lượng và chất lượng như nhau Nguyên nhân chính là do sự thiếu minh bạch trong công bố thông tin của các doanh nghiệp, dẫn đến việc một nhóm người có thể tiếp cận thông tin nhanh và chính xác hơn, từ đó thu được nhiều lợi ích hơn so với những nhà đầu tư thông thường Hiện tượng này được gọi là bất cân xứng thông tin trên TTCK.

Bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán (TTCK) xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm việc doanh nghiệp không cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời, hiện tượng rò rỉ thông tin chưa được công khai, cũng như việc cung cấp thông tin không đồng nhất cho các nhà đầu tư khác nhau Để giảm thiểu bất cân xứng này, các nghiên cứu đã chỉ ra hai giải pháp chính: Phát tín hiệu và Sàng lọc Phát tín hiệu yêu cầu các công ty niêm yết thể hiện giá trị thương hiệu, hiệu quả hoạt động và tiềm năng phát triển thông qua việc công bố thông tin tài chính và hoạt động đúng quy định, trong đó báo cáo tài chính được kiểm toán là nguồn thông tin quan trọng cho nhà đầu tư.

Lý thuyết ủy nhiệm chỉ ra rằng mối quan hệ giữa chủ sở hữu và nhà quản lý bị ảnh hưởng bởi bất cân xứng thông tin, khi nhà quản lý nắm giữ thông tin quan trọng mà chủ sở hữu không có Điều này dẫn đến nhu cầu báo cáo tài chính kế toán thường xuyên để chủ sở hữu giám sát việc tuân thủ hợp đồng và hạn chế hành vi vì lợi ích cá nhân của nhà quản lý (Watts và Zimmerman 1979) Tuy nhiên, số liệu kế toán trong báo cáo tài chính thường không được xem là thông tin quản trị, mà thay vào đó, thông tin từ kế toán quản trị mới phản ánh chính xác vị thế tài chính của công ty cho mục đích quản lý.

Kế toán và kiểm toán đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chủ sở hữu và nhà quản lý Healy và Palepu (2001) chỉ ra rằng nhu cầu về báo cáo tài chính xuất phát từ thông tin bất cân xứng và mâu thuẫn lợi ích giữa các bên Độ tin cậy của thông tin tài chính được tăng cường nhờ vào các quy định về chuẩn mực kế toán và kiểm toán, cũng như yêu cầu từ thị trường vốn Nếu số liệu kế toán không tuân thủ chuẩn mực được chấp nhận và không qua kiểm toán độc lập, chúng sẽ không có giá trị Do đó, kiểm toán có vai trò thiết yếu trong việc giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng và mâu thuẫn lợi ích, góp phần quan trọng vào việc thực hiện hợp đồng đại diện.

2.3.3 Lý thuyết thị trường tài chính hiệu quả

Thị trường tài chính hiệu quả lý thuyết phản ánh rằng giá cả sẽ phản ánh đầy đủ thông tin có giá trị Khi có thông tin mới liên quan đến hoạt động của công ty, giá cổ phiếu sẽ biến động nhanh chóng, khiến nhà đầu tư không thể thu được lợi nhuận bất thường.

Lý thuyết thị trường hiệu quả, được giới thiệu lần đầu vào năm 1970 bởi Eugene Fama, cha đẻ của tài chính hiện đại, định nghĩa rằng giá cổ phiếu luôn phản ánh đầy đủ thông tin hiện có Theo lý thuyết này, nhà đầu tư khó có cơ hội vượt trội hơn người khác do hiệu quả của thị trường chứng khoán, nơi mà giá cổ phiếu luôn gắn kết và cung cấp thông tin đồng nhất Mọi nhà đầu tư đều có quyền truy cập vào thông tin như nhau, dẫn đến việc không có cơ hội mua ép giá hay thổi phồng giá cổ phiếu, từ đó giảm thiểu sự bất cân xứng thông tin giữa các nhà đầu tư.

Theo ông có ba dạng thị trường hiệu quả:

Thị trường hiệu quả dạng yếu (weak form) là thị trường mà giá chứng khoán phản ánh thông tin quá khứ, cho thấy rằng tỷ suất lợi nhuận trước đó không có mối liên hệ với tỷ suất lợi nhuận trong tương lai Điều này có nghĩa là việc dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai hoặc kiếm lợi nhuận vượt trội dựa trên thông tin quá khứ là không khả thi.

Thị trường thể trung bình (semi strong form) là nơi mà giá cả không chỉ phản ánh thông tin lịch sử mà còn thể hiện các thông tin công bố rộng rãi, bao gồm năng lực sản xuất, chất lượng quản lý, báo cáo tài chính và mô hình kế toán.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 08/12/2021, 22:15

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 3.1. Dòng thời gian sự kiện của nghiên cứu - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Hình 3.1. Dòng thời gian sự kiện của nghiên cứu (Trang 55)
Bảng 4.2 Số lượng ý kiến kiểm toán sử dụng trong nghiên cứu - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.2 Số lượng ý kiến kiểm toán sử dụng trong nghiên cứu (Trang 61)
Bảng 4.2 trình bày thống kê số ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận  toàn phần trong nghiên cứu - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.2 trình bày thống kê số ý kiến kiểm toán không phải dạng chấp nhận toàn phần trong nghiên cứu (Trang 62)
Bảng 4.4 Tổng hợp hệ số alpha, beta của từng cổ phiếu trong giai đoạn nghiên  cứu - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.4 Tổng hợp hệ số alpha, beta của từng cổ phiếu trong giai đoạn nghiên cứu (Trang 65)
Bảng 4.4 trình bày tổng hợp hệ số alpha và beta của từng cổ phiếu qua các  năm được tính toán dựa trên mô hình thị trường đó là suất sinh lợi của thị trường  chứng khoán chỉ số VNIndex và HNXIndex - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.4 trình bày tổng hợp hệ số alpha và beta của từng cổ phiếu qua các năm được tính toán dựa trên mô hình thị trường đó là suất sinh lợi của thị trường chứng khoán chỉ số VNIndex và HNXIndex (Trang 67)
Bảng 4.6 Kết quả T-test cho AR từng ngày trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiểm  toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.6 Kết quả T-test cho AR từng ngày trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh (Trang 68)
Bảng 4.5 Bảng tổng hợp AAR trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến  kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.5 Bảng tổng hợp AAR trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh (Trang 68)
Bảng 4.7  CAAR trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiểm  toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.7 CAAR trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh (Trang 69)
Bảng 4.8  Kết quả T-test cho CAAR của tất cả các công ty trong tổng cửa sổ sự  kiện đối với ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.8 Kết quả T-test cho CAAR của tất cả các công ty trong tổng cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh (Trang 69)
Bảng 4.9 Kết quả T-test cho CAAR từng cặp ngày đối xứng xung quanh ngày sự kiện đối với ý kiến kiểm toán  chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.9 Kết quả T-test cho CAAR từng cặp ngày đối xứng xung quanh ngày sự kiện đối với ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh (Trang 70)
Bảng 4.10 Bảng tổng hợp giá trị (AAR) từng ngày  trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến  kiêm toán ngoại trừ - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.10 Bảng tổng hợp giá trị (AAR) từng ngày trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiêm toán ngoại trừ (Trang 71)
Hình 4.1. AAR trong cửa sổ sự kiện của ý kiến ngoại trừ và  toàn phần có đoạn nhấn mạnh - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Hình 4.1. AAR trong cửa sổ sự kiện của ý kiến ngoại trừ và toàn phần có đoạn nhấn mạnh (Trang 72)
Bảng 4.11 Kết quả T-test cho AAR từng ngày trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiêm toán ngoại trừ - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.11 Kết quả T-test cho AAR từng ngày trong cửa sổ sự kiện đối với ý kiến kiêm toán ngoại trừ (Trang 72)
Bảng 4.13  Kết quả T-test cho CAAR của tất cả các công ty trong tổng cửa sổ sự kiện - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.13 Kết quả T-test cho CAAR của tất cả các công ty trong tổng cửa sổ sự kiện (Trang 73)
Bảng 4.15  Bảng tổng hợp AAR trong cửa sổ sự kiện đối với - Tài liệu luận văn Ảnh Hưởng Của Ý Kiến Kiểm Toán Không Phải Dạng Chấp Nhận Toàn
Bảng 4.15 Bảng tổng hợp AAR trong cửa sổ sự kiện đối với (Trang 74)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN