1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận nghiên cứu bào chế nano berberin

51 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Bào Chế Nano Berberin
Tác giả Trịnh Thị Duyên
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Thanh Hải, ThS. Nguyễn Văn Khanh
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Dược học
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 51
Dung lượng 728,53 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔ NG QUAN (11)
    • 1.1 Vài nét về berberin (11)
      • 1.1.1 Công thức hóa học và tên gọi (11)
      • 1.1.2 Tính chất lý, hóa (11)
      • 1.1.3 Định tính (12)
      • 1.1.4 Định lượng (12)
      • 1.1.5 Tác dụng dược lý (12)
      • 1.1.6 Dược động học (13)
      • 1.1.7 Một số chế phẩm chứa berberin trên thị trường (14)
    • 1.2 Tổng quan về hạt nano thuốc (14)
      • 1.2.1 Vài nét về công nghệ nano (14)
      • 1.2.2 Ảnh hưởng của kích thước nano đến sinh khả dụng của một thuốc (15)
      • 1.2.3 Các phương pháp bào chế hạt nano thuốc (17)
      • 1.2.4 Kỹ thuật nghiền bi (17)
      • 1.2.5 Đông khô (20)
    • 1.3 M ộ t s ố nghiên c ứ u v ề nano berberin (21)
  • CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨ U (24)
    • 2.1 Nguyên liệu, thiết bị và đối tượng nghiên cứu (24)
      • 2.1.1 Nguyên liệu, hóa chất (24)
      • 2.1.2 Thiết bị, dụng cụ nghiên cứu (24)
      • 2.1.3 Đối tượng nghiên cứu (25)
    • 2.2 Nội dung nghiên cứu (25)
    • 2.3 Phương pháp nghiên cứu (25)
      • 2.3.1 Xây d ựng đườ ng chu ẩ n b ằng phương pháp đo quang phổ h ấ p th ụ UV-VIS 16 2.3.2 Bào chế nano berberin bằng phương pháp nghiền bi (25)
      • 2.3.3 Phương pháp đánh giá mộ t s ố đặ c tính c ủ a nano berberin (27)
    • 2.4 Phương pháp xử lý số liệu (28)
  • CHƯƠNG 3: KẾ T QU Ả VÀ BÀN LU Ậ N (29)
    • 3.1 Định lượng berberin bằng phương pháp đo quang phổ hấp thụ UV-VIS (29)
    • 3.2 Bào ch ế nano berberin b ằng phương pháp nghiề n bi (30)
      • 3.2.1 Ảnh hưởng của loại polyme tới kích thước tiểu phân (30)
      • 3.2.2 Ảnh hưởng của nồng độ polyme tới kích thước tiểu phân (31)
      • 3.2.3 Ảnh hưởng của loại chất diện hoạt tới kích thước tiểu phân (33)
      • 3.2.4 Ảnh hưởng của nồng độ chất diện hoạt tới kích thước tiểu phân (34)
      • 3.2.5 Ảnh hưởng của kích cỡ bi tới kích thước tiểu phân (35)
      • 3.2.6 Ảnh hưở ng c ủ a t ốc độ nghi ề n t ới kích thướ c ti ể u phân (37)
      • 3.2.7 Ảnh hưởng của thời gian nghiền tới kích thước tiểu phân (38)
    • 3.3 Đánh giá một số đặc tính của bột nano berberin (41)
      • 3.3.1 Hình thức (41)
      • 3.3.2 Kích thước tiểu phân và phân bố kích thước tiểu phân, thế zeta (41)
      • 3.3.3 Độ hòa tan của berberin nguyên liệu và bột nano berberin (0)
      • 3.3.4 Kết quả phân tích nhiệt vi sai (43)
    • 3.4 Bàn luận (43)
      • 3.4.1 Về phương pháp bào chế nano bererin (43)
      • 3.4.2 Về xây dựng quy trình bào chế nano berberin (44)
      • 3.4.3 Về các đặc tính của bột nano berberin thu được (44)

Nội dung

TỔ NG QUAN

Vài nét về berberin

Berberin là một loại alcaloid isoquinolin màu vàng, có thể được chiết xuất dễ dàng từ thực vật hoặc tổng hợp hóa học Nó thường xuất hiện trong rễ, thân rễ và vỏ của các cây thuộc chi Berberis, Hydrastis canadensis và Coptis, với hàm lượng khoảng 1,5%.

– 3% và chiếm ít nhất 82% so với alcaloid toàn phần [4]

Berberin thường được sử dụng trong lâm sàng ở dạng berberin clorid, berberin sulfat [28]

1.1.1 Công thức hóa học và tên gọi

Hình 1.1 Công thức hóa học của berberin clorid

Công thức phân tử: C20H18NO4Cl.2H2O Tên khoa học: 5,6-dihydro-8,9-dimethoxy-1,3-dioxa-6a-azoniaindeno(5,6-a)anthracen clorid dihydrat [6]

- Cảm quan: tinh thể hay bột kết tinh màu vàng, không mùi, có vị rất đắng

- Độ chảy khi ở dạng base là 145 0 C (bị phân hủy) [6]

Berberin có độ tan khác nhau tùy thuộc vào dạng của nó Dạng base tan chậm trong nước, hơi tan trong ethanol và khó tan trong ether Trong khi đó, dạng muối clorid có thể tan ở tỉ lệ 1/400 trong nước, dễ tan trong nước sôi và ethanol, nhưng không tan trong chloroform và ether Dạng muối sulfat dễ tan trong nước với tỷ lệ 1/30 và cũng tan trong ethanol Đặc biệt, độ tan trong nước của berberin phụ thuộc vào pH, đạt mức cao nhất khi pH khoảng 7.

- Berberin không có C bất đối nên không có đồng phân quang học [6]

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Berberin có tính chất như một base yếu, cho phép nó tạo muối bằng cách thay thế nhóm OH Quá trình tạo muối berberin khác với các alcaloid khác, vì muối được hình thành tương tự như muối của hydroxyd kim loại, tức là có chứa phân tử nước.

Oxy có tính hóa học đặc trưng, trong đó berberin không ổn định khi ở trong môi trường kiềm mạnh Chất này dễ bị phân hủy và chuyển hóa, dẫn đến sự hình thành aldehyd, được gọi là berberinal.

- Hóa tính mạch kép: berberin có thể mất mạch kép tại nhân giữa để cho các hydro alkaloid không màu [6]

Theo Dược điển Việt Nam V, các phương pháp định tính berberin clorid [3]:

- Phương pháp A: so sánh phổ hấp thụ hồng ngoại của chế phẩm với phổ hấp thụ hồng ngoại của berberin clorid chuẩn

- Phương pháp B: hòa tan 0,1 g chế phẩm trong 20 ml nước bằng cách đun nóng

Thêm 0,5 ml acid nitric đậm đặc vào mẫu và làm lạnh trong 10 phút trước khi lọc Sau đó, lấy 3 ml dịch lọc và thêm 1 ml dung dịch bạc nitrat 2%, sẽ thấy xuất hiện tủa trắng Tủa này không tan trong acid nitric loãng nhưng có thể tan trong dung dịch amoniac dư thừa.

- Phương pháp C: hòa tan 5 mg chế phẩm trong 10 ml dung dịch acid hydrocloric 10% (TT) Lắc đều, thêm một ít bột cloramin B (TT) sẽ có màu đỏ anh đào

1.1.4 Định lượng Để định lượng berberin clorid dùng các phương pháp sau:

- Phương pháp sắc kí lỏng [3]

- Phương pháp đo quang phổ hấp thụ UV-VIS [2]

Berberin là một hợp chất có nhiều tác dụng dược lý, bao gồm khả năng kháng khuẩn, kháng virut, hạ sốt, chống tiêu chảy và chống viêm Tác dụng chống viêm của berberin được thực hiện thông qua việc ức chế protein hoạt hóa 1 (AP-1), một yếu tố phiên mã quan trọng trong quá trình viêm.

Berberin có khả năng điều trị các bệnh nhiễm trùng đường ruột bằng cách ức chế sự phát triển của vi khuẩn Helicobacter pylori, góp phần quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe tiêu hóa.

Gần đây, nghiên cứu cho thấy berberin có khả năng điều trị bệnh tiểu đường type 2 bằng cách kích thích hoạt động của protein kinase được kích hoạt bởi adenosine monophosphate Ngoài ra, berberin cũng được xem là một tác nhân giảm cholesterol mới với cơ chế hoạt động khác biệt so với nhóm statins.

Berberin đã được chứng minh có hiệu quả tích cực trong việc điều trị các bệnh tim mạch, bao gồm việc kiểm soát huyết áp, chống loạn nhịp, tăng cường co bóp tim, giảm sức cản ngoại vi và huyết áp, cũng như phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch.

Berberin có tác dụng tích cực đối với hệ thần kinh, đặc biệt trong tình trạng thiếu máu não, khi nó giúp ngăn chặn quá trình apoptosis và bảo vệ tế bào thần kinh khỏi tổn thương, đồng thời cải thiện tuần hoàn máu não Hơn nữa, berberin còn hoạt động như một chất ức chế thuận nghịch acetylcholinesterase, góp phần cải thiện khả năng học tập và trí nhớ cho bệnh nhân Alzheimer.

Berberin có hoạt tính chống trầm cảm bằng cách điều chỉnh các amin sinh học trong não, bao gồm norepinephrin, serotonin và dopamin, cũng như các thụ thể oxyd và thụ thể sigma.

Berberin còn có thể sử dụng để điều trị nhiều bệnh ung thư khác nhau như ung thư biểu mô tế bào gan [25], ung thư ruột kết ở người [31]

Berberin được hấp thụ tốt nhất qua đường uống, đặc biệt trong việc điều trị các bệnh mãn tính Sinh khả dụng của berberin phụ thuộc vào tỷ lệ và mức độ hòa tan trong dịch tiêu hóa cũng như tính thẩm thấu của thuốc Quá trình hấp thu chủ yếu diễn ra ở ruột non Nghiên cứu cho thấy sinh khả dụng của berberin khi dùng đường uống ở người khỏe mạnh là tương đối thấp, với Cmax đạt 0,44 ± 0,42 ng/ml và Tmax là 9,8 ± 6,6 giờ.

Berberin, một alcaloid amin bậc bốn, có cấu trúc hóa học đặc biệt giúp nó liên kết dễ dàng với protein huyết tương, từ đó ảnh hưởng đến sự phân bố và mức độ hoạt động trong cơ thể.

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Nghiên cứu trên động vật cho thấy berberin được chuyển hóa qua gan và được bài tiết qua mật, trong khi một số nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng thuốc cũng có thể bị bài tiết qua thận.

1.1.7 Một số chế phẩm chứa berberin trên thị trường

Berberin thường được sử dụng phổ biến dưới dạng viên nén, viên nang, viên nén bao phim và viên nén bao đường với các hàm lượng 10 mg, 25 mg và 50 mg mỗi viên Nó có thể được dùng đơn độc hoặc kết hợp với một số thành phần khác như mộc hương và ba chẽ để tăng cường hiệu quả.

Bảng 1.1 Một số chế phẩm chứa berberin trên thị trường Tên biệt dược lượHàm ng Dạng bào chế Nhà sản xuất

Berberin 100mg 100 mg Viên nang Công ty Cổ phần Hóa - Dược phẩm

Tổng quan về hạt nano thuốc

Công nghệ nano, với lịch sử phát triển lâu dài, đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như hóa học, sinh học, vật lý, khoa học vật liệu và y học Được định nghĩa là các công nghệ liên quan đến thiết kế, phân tích và chế tạo các cấu trúc, thiết bị và hệ thống bằng cách điều khiển hình dáng và kích thước ở quy mô nanomet, nhỏ hơn 1 nanomet.

Hệ thống công nghệ nano được phân loại thành vật liệu nano và thiết bị nano Vật liệu nano được chia thành hai loại chính: tinh thể nano và vật liệu có cấu trúc nano, bao gồm vật liệu dựa vào polyme như dendrimer, hạt nano, micell, và vật liệu không dựa vào polyme như ống nano cacbon, hạt nano kim loại, cùng dấu chấm lượng tử.

Công nghệ nano trong y học giúp chẩn đoán sớm và chính xác, điều trị hiệu quả với ít tác dụng phụ, đồng thời đánh giá hiệu quả điều trị một cách không xâm lấn.

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

1.2.2 Ảnh hưởng của kích thước nano đến sinh khả dụng của một thuốc

Thuốc có sinh khả dụng kém thường có độ tan trong nước thấp và tốc độ hòa tan chậm, dẫn đến khả năng thấm qua màng sinh học kém hoặc bị chuyển hóa mạnh Công nghệ nano giúp tạo ra các hạt nano thuốc với kích thước nhỏ, từ đó tăng cường độ tan và tốc độ hòa tan, cũng như khả năng bám dính lên bề mặt và màng tế bào Nhờ đó, sinh khả dụng của thuốc được cải thiện, mang lại hiệu quả điều trị cao hơn.

Tăng độ tan bão hòa Cs

Đối với các dược chất có kích thước micromet, độ tan chỉ phụ thuộc vào tính chất lý hóa, môi trường hòa tan và nhiệt độ Tuy nhiên, khi kích thước tiểu phân giảm xuống nanomet (< 1nm), độ tan trở nên nhạy cảm hơn với kích thước hạt Sự khác biệt này có thể được giải thích thông qua phương trình Kelvin và phương trình Ostwald-Freundlich.

Áp lực hòa tan P r của một hạt có bán kính r được xác định bởi công thức P r = P ∞ + (2Ɣ)/(r) - (M r * ρ * g)/(R * T), trong đó P ∞ là áp lực hòa tan của hạt vô cùng lớn, Ɣ là sức căng bề mặt, R là hằng số khí, T là nhiệt độ tuyệt đối, M r là khối lượng phân tử và ρ là mật độ hạt.

Phương trình Kelvin ban đầu được áp dụng để mô tả áp suất hơi trên bề mặt cong của giọt chất lỏng trong không khí, sau đó được mở rộng để bao gồm các tiểu phân chất rắn.

Áp lực hòa tan tăng lên khi kích thước tiểu phân giảm, dẫn đến sự cân bằng động giữa các phân tử hòa tan và phân tử đang kết tinh ở trạng thái bão hòa Khi áp lực hòa tan gia tăng, cân bằng này có thể bị dịch chuyển, từ đó làm tăng khả năng hòa tan của dược chất.

Phương trình Ostwalde – Freundlich: logCs

Độ tan bão hòa (Cs) được xác định bằng công thức 2.303𝑅𝑇ρr, trong đó C α là độ hòa tan chất rắn, σ là lực căng liên kết của chất, V là thể tích của vật liệu hạt, R là hằng số khí, T là nhiệt độ tuyệt đối, ρ là mật độ của vật rắn, và r là bán kính của hạt.

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Theo phương trình Ostwalde - Freundlich, độ hòa tan bão hòa (Cs) của thuốc tăng lên khi kích thước hạt (r) giảm Hiệu ứng này tuy không đáng kể với các hạt lớn hơn, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với các vật liệu có kích thước hạt trung bình dưới 1 - 2 µm, đặc biệt là dưới 200 nm Điều này dẫn đến việc tăng tốc độ hòa tan của thuốc.

Theo mô tả của Nernst–Brunner và Levich, tốc độ hòa tan của dược chất được điều chỉnh từ mô hình của Noyes – Whitney và được biểu diễn qua một phương trình cụ thể.

Tốc độ hòa tan của dược chất được xác định bởi công thức dM/dt = h(Cₛ - C), trong đó dM/dt là tốc độ hòa tan, D là hệ số khuếch tán, S là diện tích bề mặt tiểu phân, Cₛ là độ tan bão hòa và C là nồng độ dược chất tại thời điểm t Bề dày lớp khuếch tán h cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hòa tan này.

Tốc độ hòa tan của các hạt nano được cải thiện nhờ vào việc tăng diện tích bề mặt, giảm độ dày lớp khuếch tán và nâng cao độ tan bão hòa.

Giảm kích thước tiểu phân xuống nanomet sẽ làm tăng độ hòa tan nhờ vào việc gia tăng diện tích bề mặt Chẳng hạn, khi kích thước hạt của thuốc giảm từ 8 µm xuống 200 nm, diện tích bề mặt sẽ tăng gấp 40 lần.

Bề dày lớp khuếch tán:

Theo phương trình Prandtl, bề dày lớp khuếch tán được tính bằng công thức h = k (√L v), trong đó k là hằng số, L là độ dài quãng đường dòng chảy, và v là vận tốc chuyển động tương đối của dòng chất lỏng so với bề mặt tiểu phân chất rắn.

M ộ t s ố nghiên c ứ u v ề nano berberin

Để khắc phục nhược điểm về độ hòa tan và hấp thu kém của berberin, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để phát triển nano berberin (BBR) Bài viết này sẽ tóm tắt một số nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.

Năm 2018, Sahibzada cùng các cộng sự đã phát triển nano BBR thông qua hai phương pháp chính: kết tủa bay hơi dung môi (EPN) và kết tủa bằng thay đổi dung môi (APSP).

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

- Phương pháp EPN: đầu tiên thêm nhanh hexan (dung môi không hòa tan BBR) vào dung dịch BBR bão hòa (dung môi ethanol), hỗn dịch nano được hình thành

Hạt thuốc nano thu được bằng cách bay hơi nhanh dung môi trong chân không

Phương pháp APSP bắt đầu bằng việc chuẩn bị dung dịch BBR bão hòa trong ethanol, sau đó bơm nhanh vào nước khử ion, sử dụng bơm tiêm với tốc độ dòng chảy cố định 1mL/phút và khuấy cơ học ở tốc độ 3000 vòng/phút Cuối cùng, hỗn dịch nano được bay hơi chân không để loại bỏ dung môi, tạo ra hạt thuốc có kích thước nano.

Kết quả nghiên cứu cho thấy kích thước hạt nano BBR trung bình đạt 71,53 nm khi sử dụng phương pháp EPN và 102,62 nm với phương pháp APSP Phân tích DSC không ghi nhận sự chuyển đổi từ dạng kết tinh sang vô định hình ở cả hai mẫu nano BBR Sau 15 phút, cả hai mẫu đều hòa tan hơn 70%, trong khi BBR nguyên liệu chỉ hòa tan dưới 20% ở pH 6,8 Hạt nano BBR được bào chế cho thấy khả năng kháng một số vi khuẩn Gram âm, Gram dương và nấm.

Nano berberin được sản xuất thông qua phương pháp đồng nhất hóa áp suất cao (HPH) Quy trình bắt đầu bằng việc phân tán bột BBR clorid trong dung dịch nước có chứa chất diện hoạt với nồng độ khoảng 0,5% Sau đó, hỗn hợp này được xử lý bằng máy đồng nhất hóa tốc độ cao với 5000 vòng/10 phút, tiếp theo là chuyển qua máy đồng nhất hóa áp suất cao trong phòng thí nghiệm, trải qua 5 chu kỳ ở 500 bar và 15 chu kỳ ở 1500 bar.

Kết quả: nano BBR có KTTP trung bình 72,4 nm với PDI = 0,302, thế zeta 6,95 mV

Phân tích DSC cho thấy sự hình thành chất rắn vô định hình nano BBR, đồng thời hỗn dịch nano BBR đã thể hiện tác dụng chống tiểu đường trên mô hình chuột mắc bệnh tiểu đường.

Lin và cộng sự đã phát triển hạt nano liên hợp fucose nạp BBR thông qua quy trình tổng hợp chitosan liên hợp fucose (fucose-chitosan) Họ đã tạo ra hạt nano này bằng cách kết hợp fucose-chitosan và heparin thông qua phương pháp ion hóa đơn giản với sự khuấy từ ở nhiệt độ phòng Cuối cùng, BBR được nạp vào hạt nano liên hợp fucose bằng phương pháp đông khô.

Kết quả: hạt nano liên hợp fucose nạp BBR có KTTP 198,8 ± 6,9 nm, thế zeta 30,1 ±

0,9 mV Nano liên hợp fucose nạp BBR có thể kiểm soát giải phóng tại vùng nhiễm

H.pylori và ức chế tăng trưởng của H.pylori [18]

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Vào năm 2017, Wang và các cộng sự đã phát triển hạt nano Janus Fe3O4-mSiO2, trong đó một đầu hạt chứa Fe3O4 để nhắm mục tiêu từ tính, trong khi thân hạt làm bằng SiO2 được thiết kế để cung cấp berberine Hạt nano này có đầu từ với đường kính khoảng 100nm và thân silica dài khoảng 200nm.

Các hạt nano này giải phóng thuốc chọn lọc tại tế bào ung thư, có hiệu quả mạnh hơn, ít độc tính hơn BBR tự do [25]

BBR được phân phối dưới dạng hạt micell ngược khan kích thước nano, với cấu trúc bao gồm pha dầu ngoài là hỗn hợp cyclohexan, dichloromethan và dietyl ete (4: 1: 1, v/v/v) chứa phosphatidylcholin đậu nành, và pha nước bên trong là berberin hòa tan với nồng độ 2 mg/ml Quá trình tạo nhũ tương được thực hiện bằng siêu âm (có làm lạnh), sau đó nhũ tương được đông khô Hạt micell ngược khan chứa BBR có kích thước 36 ± 2,1nm, an toàn và có khả năng tăng cường sinh khả dụng, cũng như hiệu quả chống tiểu đường so với BBR thông thường.

Liposome berberin được bào chế bởi Lin và các cộng sự vào năm 2013 thông qua một quy trình kết hợp nhiều phương pháp như hydrat hóa màng mỏng (TF), bay hơi ngược pha (RE), ép đùn (E), đồng nhất áp suất cao (H), lọc gel (G) và thẩm tích (D) Các phương pháp TF và RE được sử dụng để tạo liposome berberin, trong khi E và H giúp giảm kích thước và chỉ số phân bố kích thước (PDI) của liposome Liposome BBR được phân lập bằng phương pháp G hoặc D, dẫn đến ba quy trình được kí hiệu là TF-E-G, TF-H-G và RE-E-D Nghiên cứu in vivo cho thấy liposome làm giảm tỉ lệ loại bỏ BBR trong huyết tương và mô, đồng thời cho thấy tác dụng ức chế sự phát triển khối u trong chuột mang khối u HepG2.

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨ U

Nguyên liệu, thiết bị và đối tượng nghiên cứu

Bảng 2.1 Nguyên liệu, hóa chất

STT Tên hóa chất Nguồn gốc Tiêu chuẩn

1 Berberin clorid Trung Quốc NSX

3 Natri lauryl sulfat Trung Quốc NSX

9 Nước tinh khiết Việt Nam DĐVN V

(87,1%) Viện Kiểm nghiệm thuốc Thành phố Hồ Chí Minh DĐVN V

2.1.2 Thiết bị, dụng cụ nghiên cứu Thiết bị

1 Cân kĩ thuật Sartorius practum 612-1S (Đức)

2 Máy siêu âm Elmasonic S100H (Đức)

4 Máy nghiền bi hành tinh (planetary ball mill) SFM-1 (Mỹ)

5 Hệ thống thiết bị phân tích kích thước, thế zeta Horiba SZ100 (Nhật Bản)

6 Cân phân tích AY 129, Shimadzu (Nhật Bản)

7 Máy đo quang UV- 2600 Shimadu (Nhật Bản)

8 Hệ thống đo độ hòa tan DRS - 14 (Ấn Độ)

9 Máy phân tích quét nhiệt vi sai DSC LINSEIS (Đức)

10 Máy đông khô EYELA (Nhật Bản)

Cốc thủy tinh, đũa thủy tinh, phễu, ống nghiệm, bình định mức

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

2.1.3 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: nano berberin

Nội dung nghiên cứu

Nghiên cứu về bào chế nano berberin bằng phương pháp nghiền bi đã khảo sát ảnh hưởng của loại và nồng độ polyme, loại và nồng độ chất diện hoạt, kích thước bi, tốc độ nghiền và thời gian nghiền Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa quá trình sản xuất nano berberin, nhằm nâng cao hiệu quả và tính ổn định của sản phẩm.

- Đánh giá một số đặc tính của bột nano berberin: hình thức, KTTP, phân bố KTTP, thế zeta, phân tích nhiệt vi sai, độ hòa tan.

Phương pháp nghiên cứu

Cân 0,0015 g berberin và cho vào bình định mức 100 ml Thêm khoảng 80 ml ethanol tuyệt đối, sau đó siêu âm cho đến khi berberin tan hoàn toàn Cuối cùng, bổ sung ethanol đến vạch 100 ml.

Pha loãng các dung dịch với nồng độ 5, 7,5, 10 và 12,5 µg/ml trong ethanol, sau đó đo mật độ quang của các dung dịch này ở bước sóng 348 nm, với mẫu trắng là môi trường tương ứng.

Từ kết quả thu được, xây dựng phương trình hồi quy thực nghiệm, vẽ đồ thị biểu thị sự tương quan giữa mật độ quang và nồng độ berberin

2.3.2 Bào chế nano berberin bằng phương pháp nghiền bi

Bào chế nano berberin theo quy trình sau:

Cho bi zirconium oxid, berberin nguyên liệu, polyme, chất diện hoạt, và nước vào bình chứa hình trụ, sau đó nghiền với cỡ bi, tần số và thời gian nhất định Hỗn dịch nano berberin được chuyển đổi thành dạng bột thông qua phương pháp đông khô Quy trình và điều kiện bào chế được minh họa trong Hình 2.1.

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Hình 2.1 Điều kiện và quy trình bào chế nano berberin bằng phương pháp nghiền bi

Berberin nguyên liệu, polyme, chất diện hoạt, nước, bi zirconium oxid

400 g bi các loại gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10g, 20 bi loại 5g, 50 bi loại 2g Đông khô ở:

Bảo quản bột nano berberin trong bình tránh ẩm ở nhiệt độ phòng

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

2.3.3 Phương pháp đánh giá một sốđặc tính của nano berberin a) Hình thức Đánh giá bằng cảm quan: màu sắc b) Kích thước tiểu phân, phân bố kích thước tiểu phân, thế zeta

Sử dụng hỗn dịch nano berberin để đo KTTP và chỉ số đa phân tán PDI, thế zeta bằng thiết bị phân tích kích thước, thế zeta Horiba SZ 100

Kích thước trung bình của tiểu phân và chỉ số đa phân tán PDI được xác định thông qua phương pháp nhiễu xạ tia laser Quá trình này bao gồm việc cho hỗn dịch pha loãng đi qua chùm tia laser, từ đó đo lường các chùm tia khúc xạ và phản xạ Kích thước hạt trung bình của hệ thống sẽ được tính toán dựa trên định luật xấp xỉ Fraunhofer hoặc lý thuyết Mie.

Thế zeta được xác định qua việc đo tốc độ di chuyển của tiểu phân trong vùng điện trường bằng phép đo gió Doppler laser Độ hòa tan của bột nano berberin ở pH 6,8 được đánh giá thông qua phép thử độ hòa tan với các điều kiện cụ thể Kết quả cho thấy sự khác biệt trong độ hòa tan giữa berberin nguyên liệu và nano berberin.

- Thiết bị: máy cánh khuấy, tốc độ quay 100 vòng/phút

- Môi trường hòa tan: 900 ml dung dịch đệm pH=6,8 (pha theo Dược điển Việt Nam V)

- Nhiệt độ môi trường hòa tan: 37 0 C ± 0,5 0 C

- Khối lượng mẫu thử: tương ứng với 250 mg berberin

Cho mẫu thử vào cốc chứa môi trường hòa tan và khởi động máy Sau 5, 10, 15, 30 và 60 phút, hút 10 ml dịch, bổ sung 10 ml môi trường pH = 6,8 Lọc dung dịch qua màng lọc cellulose acetat 0,45 μm Pha loãng dịch thử với môi trường hòa tan đến nồng độ phù hợp, sau đó tiến hành đo hấp thụ quang ở bước sóng 348 nm.

Nồng độ berberin trong môi trường hòa tan tại thời điểm t, ký hiệu là Ct (đơn vị µg/ml), được tính toán dựa trên đường chuẩn đã xây dựng trong mục 2.3.1, sau khi nhân với hệ số pha loãng.

- Lượng berberin đã hòa tan tại thời điểm t được tính theo công thức:

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Qt : lượng berberin đó hũa tan tại thời điểm t (àg)

Ct : nồng độ berberin trong mụi trường hũa tan tại thời điểm t (àg/ml)

Ci : nồng độ berberin trong mụi trường hũa tan tại thời điểm trước đú (àg/ml)

V : thể tích môi trường thử hòa tan (V0ml)

V0 : thể tích mẫu dung dịch thử lấy ra mỗi lần (V0 = 10ml)

- Độ hòa tan tại thời điểm t được tính theo công thức: Độ hòa tan = Q M t 100 (%)

Qt : lượng berberin đó hũa tan tại thời điểm t (àg)

Hàm lượng berberin trong mẫu thử được xác định bằng cách lấy kết quả trung bình từ ba lần thử nghiệm Phân tích nhiệt vi sai (DSC) được thực hiện để nghiên cứu sự thay đổi trạng thái tinh thể trước và sau khi nghiền bi, đồng thời so sánh điểm nóng chảy của nano berberin với điểm nóng chảy của berberin nguyên liệu.

Các điểm nóng chảy này được xác định bằng phương pháp đo nhiệt quét vi sai DSC

Cỏch tiến hành: Sử dụng đĩa nhụm chứa mẫu 40 àl, đục thủng nắp, khối lượng mẫu khoảng từ 3–7 mg Nhiệt độ quét từ 50 – 300 0 C, tốc độ gia nhiệt 10 0 C/phút

Trong quá trình thử, thổi khí nitrogen với lưu lượng 50 ml/phút.

Phương pháp xử lý số liệu

Các kết quả được xử lý thống kê với sự hỗ trợ của phần mềm Microsoft Excel 2013

Kết quả được trình bày dưới dạng: X ± SD Trong đó: X là giá trị trung bình

SD là độ lệch chuẩn (cỡ mẫu n=3)

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

KẾ T QU Ả VÀ BÀN LU Ậ N

Định lượng berberin bằng phương pháp đo quang phổ hấp thụ UV-VIS

Tiến hành pha dãy dung dịch chuẩn berberin clorid có nồng độ lần lượt là 5; 7,5;

10; 12,5; 15 àg/ml và đo độ hấp thụ quang ở bước súng 348 nm, kết quả thể hiện trong Bảng 3.1 và Hình 3.1

Bảng 3.1 Độ hấp thụ quang theo nồng độ của Berberin tại bước sóng

Nồng độ (àg/ml) 5 7,5 10 12,5 15 Độ hấp thụ quang (Abs) 0,334 0,461 0,609 0,744 0,909

Hình 3.1 Đồ thị biểu diễn độ hấp thụ quang của berberin theo nồng độ tại bước sóng 348 nm

Nghiên cứu cho thấy R² = 0,9982, cho thấy mối quan hệ tuyến tính mạnh mẽ giữa độ hấp thụ quang và nồng độ dung dịch berberin trong khoảng từ 5 àg/ml đến 15 àg/ml Phương trình thể hiện sự tương quan này được xác định là y = 0,0573x + 0,0382.

Trong đú, y là độ hấp thụ quang (đơn vị Abs), x là nồng độ berberin (đơn vị àg/ml) y = 0.0573x + 0.0382 R² = 0.9982

0 2 4 6 8 10 12 14 16 Đ ộ hấ p th ụ qu an g (A bs )

Nồng độ berberin (àg/ml)

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Bào ch ế nano berberin b ằng phương pháp nghiề n bi

Nano berberin được bào chế theo quy trình như mô tả trong mục 2.3.2 với các thông số:

- Công thức hỗn dịch: 20 % berberin (1 g), 1 % NaLS (0.05g), polyme dùng với nồng độ 5 % (0,25g) một trong ba loại HPMC E6; HPMC E15; PVP K30 Thể tích nước khoảng 5ml

- Bi zirconium oxid: tổng khối lượng 400 g gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10 g, 20 bi loại 5 g, 50 bi loại 2g

Hỗn dịch berberin thu được sau khi nghiền được đánh giá KTTP, chỉ số đa phân tán PDI, thế zeta Kết quả được thể hiện trong Bảng 3.2 và Hình 3.2

Bảng 3.2 KTTP, PDI, thế zeta của hỗn dịch berberin theo loại polyme

Loại polyme KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)

Hình 3.2 KTTP, PDI của hỗn dịch berberin theo loại polyme

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

- KTTP: KTTP nhỏ nhất là 545,7 nm khi sử dụng polyme HPMC E6

- PDI: Phân bố KTTP của hỗn dịch dùng polyme HPMC E6; HPMC E15; PVP

K30 lần lượt là 0,589; 0,748; 0,724 đều lớn hơn 0,3 chứng tỏ KTTP có khoảng phân bố rộng, mẫu dùng HPMC E6 có PDI nhỏ nhất

- Thế zeta: Giá trị tuyệt đối của thế zeta khi sử dụng HPMC E6; HPMC E15;

PVP K30 đều lớn hơn 25 cho thấy hỗn dịch berberin có thể có độ ổn định cao

Kết luận: Công thức nghiền sử dụng polyme HPMC E6 cho KTTP và PDI nhỏ nhất, nên chúng tôi lựa chọn polyme HPMC E6 cho các nghiên cứu tiếp theo

3.2.2 Ảnh hưởng của nồng độ polyme tới kích thước tiểu phân

Nano berberin được bào chế theo quy trình như mô tả trong mục 2.3.2 với các thông số:

- Công thức hỗn dịch: 20% berberin (1 g), 1 % NaLS (0.05 g), polyme HPMC E6 dùng với nồng độ 0,5; 1; 3; 5 % Thể tích nước khoảng 5ml

- Bi zirconium oxid: khoảng 400 g gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10 g, 20 bi loại

Hỗn dịch berberin thu được sau khi nghiền được đánh giá KTTP, chỉ số đa phân tán PDI, thế zeta Kết quả được thể hiện trong Bảng 3.3 và Hình 3.3

Bảng 3.3 KTTP, PDI, thế zeta của hỗn dịch berberin theo nồng độ polyme

Nồng độ polyme (%) KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Hình 3.3 KTTP, PDI của hỗn dịch berberin theo nồng độ polyme

Hỗn dịch sử dụng polyme HPMC E6 cho thấy sự khác biệt rõ rệt về kích thước tiểu phân (KTTP) tùy thuộc vào nồng độ Cụ thể, nồng độ 3% cho KTTP nhỏ nhất là 546,4 nm, trong khi nồng độ 0,5% cho KTTP lớn nhất là 906,3 nm Sự chênh lệch KTTP giữa các công thức với nồng độ HPMC E6 1%, 3% và 5% là không đáng kể Điều này cho thấy khi nồng độ HPMC E6 tăng từ 0,5% lên 1%, KTTP giảm dần, nhờ vào khả năng của polyme trong việc tạo lớp áo ngăn chặn sự kết tụ của các tiểu phân.

- PDI: Phân bố KTTP khi dùng HPMC E6 với nồng độ 0,5; 1; 3; 5 % lần lượt là

0,643; 0,524; 0,573; 0,539 đều lớn hơn 0,3 chứng tỏ KTTP có khoảng phân bố rộng Hỗn dịch sử dụng HPMC E6 với nồng độ 1% có khoảng phân bố nhỏ nhất

- Thế zeta: Giá trị tuyệt đối của thế zeta của các mẫu đều lớn hơn 25 cho thấy hỗn dịch berberin có thể có độ ổn định cao

Kết luận cho thấy, khi sử dụng HPMC E6 với nồng độ 3%, kích thước tiểu phân thu được là nhỏ nhất và có sự đồng nhất giữa các công thức với nồng độ HPMC E6 1%, 3% và 5% Do đó, để giảm thiểu lượng tá dược trong hỗn dịch, HPMC E6 1% đã được chọn cho các nghiên cứu tiếp theo.

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

3.2.3 Ảnh hưởng của loại chất diện hoạt tới kích thước tiểu phân

Nano berberin được bào chế theo quy trình như mô tả trong mục 2.3.2 với các thông số:

- Công thức hỗn dịch: 20 % berberin (1 g), 1 % HPMC E6 (0,05 g), 1 % (0,05 g) chất diện hoạt là một trong ba loại NaLS; Tween 80; Poloxamer 407 Thể tích nước khoảng 5ml

- Bi zirconium oxid: khoảng 400 g gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10 g, 20 bi loại

Hỗn dịch berberin thu được sau khi nghiền được đánh giá KTTP, chỉ số đa phân tán PDI, thế zeta Kết quả được thể hiện trong Bảng 3.4 và Hình 3.4

Bảng 3.4 KTTP, PDI, thế zeta của hỗn dịch berberin theo loại chất diện hoạt

Chất diện hoạt KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)

Hình 3.4 KTTP, PDI của hỗn dịch berberin theo loại chất diện hoạt

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

- KTTP: KTTP nhỏ nhất là 560,6 nm khi sử dụng chất diện hoạt NaLS

PDI của các hỗn dịch sử dụng NaLS, poloxamer 407 và Tween 80 lần lượt là 0,561; 0,673 và 0,650, cho thấy rằng chúng đều có khoảng phân bố kích thước tiểu phân lớn hơn 0,3, chứng tỏ sự phân bố rộng Trong đó, hỗn dịch sử dụng NaLS có khoảng phân bố kích thước tiểu phân nhỏ nhất.

- Thế zeta: Giá trị tuyệt đối của thế zeta khi dùng NaLS; Poloxamer 407 và

Tween 80 đều lớn cho thấy hỗn dịch berberin có thể có độ ổn định cao

Kết luận cho thấy việc sử dụng chất diện hoạt NaLS trong công thức nghiền mang lại giá trị KTTP và PDI nhỏ nhất Do đó, chúng tôi quyết định chọn NaLS cho các nghiên cứu tiếp theo.

3.2.4 Ảnh hưởng của nồng độ chất diện hoạt tới kích thước tiểu phân

Nano berberin được bào chế theo quy trình như mô tả trong mục 2.3.2 với các thông số:

- Công thức hỗn dịch: 20% berberin (1 g), 1% (0,05g) HPMC E6, chất diện hoạt NaLS dùng với nồng độ lần lượt là 0,4 ; 0,6; 1% Thểtích nước khoảng 5ml

- Bi zirconium oxid: khoảng 400 g gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10 g, 20 bi loại

Hỗn dịch berberin thu được sau khi nghiền được đánh giá KTTP, chỉ số đa phân tán PDI, thế zeta Kết quảđược thể hiện trong Bảng 3.5 và Hình 3.5

Bảng 3.5 KTTP, PDI, thế zeta của hỗn dịch berberin theo nồng độ chất diện hoạt

Nồng độ chất diện hoạt (%) KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Hình 3.5 KTTP, PDI của hỗn dịch berberin theo nồng độ chất diện hoạt

- KTTP: KTTP nhỏ nhất là 547,1 nm khi hỗn dịch sử dụng NaLS với nồng độ 1% KTTP không thay đổi nhiều khi giảm nồng độ NaLS xuống 0,6; 0,4 %

Hỗn dịch sử dụng NaLS với các nồng độ 0,4%; 0,6%; và 1% có chỉ số phân bố KTTP lần lượt là 0,546; 0,523; và 0,512, tất cả đều lớn hơn 0,3, cho thấy KTTP có khoảng phân bố rộng Trong đó, hỗn dịch với nồng độ NaLS 1% có khoảng phân bố nhỏ nhất.

- Thế zeta: Giá trị tuyệt đối của thế zeta của hỗn dịch dùng NaLS với nồng độ

0,4; 0,6; 1% đều lớn cho thấy hỗn dịch berberin có thể có thể có độ ổn định cao

Kết luận: KTTP không khác nhau nhiều khi dùng chất diện hoạt NaLS với nồng độ

0,4; 0,6; 1% Vì NaLS là một chất diện hoạt anion nên chúng tôi chọn nồng độ 0,4% để đảm bảo ít tá dược nhất và an toàn khi sử dụng lâm sàng

3.2.5 Ảnh hưởng của kích cỡ bi tới kích thước tiểu phân

Nano berberin được bào chế theo quy trình như mô tả trong mục 2.3.2 với các thông số:

- Công thức hỗn dịch: 20% Berberin (1 g), 1% HPMC E6 (0,05 g), 0,4 % NaLS (0.02 g) Thể tích nước khoảng 5ml

(Mẫu 1) Khoảng 400 g gồm 16 bi loại 25g;

(Mẫu 2) Khoảng 400g gồm 200 bi loại 2g;

Nồng độ chất diện hoạt (%)

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

(Mẫu 3) Khoảng 400 g gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10 g, 20 bi loại 5 g, 50 bi loại 2g

Hỗn dịch berberin thu được sau khi nghiền được đánh giá KTTP, chỉ số đa phân tán PDI, thế zeta Kết quả được thể hiện trong Bảng 3.6 và Hình 3.6

Bảng 3.6 KTTP, PDI, thế zeta của hỗn dịch berberin theo kích cỡ bi

Mẫu Cỡ bi KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)

Hình 3.6 KTTP, PDI của hỗn dịch berberin theo kích cỡ bi

- KTTP: KTTP nhỏ nhất là 548,5 nm khi sử dụng đồng thời bốn cỡ bi loại 25;

10; 5; 2g Mẫu 1 sử dụng bi to cho KTTP lớn nhất 576,4 nm KTTP khác biệt không đáng kể giữa ba mẫu

PDI (Polydispersity Index) của các mẫu bi lớn, bi nhỏ và bi các loại lần lượt là 0,563; 0,589; và 0,542, đều lớn hơn 0,3, cho thấy rằng kích thước phân bố của các hạt có sự đa dạng rộng Trong đó, mẫu 3 có khoảng phân bố kích thước nhỏ nhất.

Bi to Bi nhỏ Nhiều cỡ bi

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

- Thế zeta: Giá trị tuyệt đối của thế zeta của các mẫu đều lớn cho thấy hỗn dịch nano berberin có thể có độ ổn định cao

Kết luận: Để đạt được kích thước thực phẩm nhỏ nhất, chúng tôi đã sử dụng 400g bi, bao gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10g, 20 bi loại 5g và 50 bi loại 2g Do đó, chúng tôi quyết định áp dụng nhiều kích cỡ bi khác nhau cho các nghiên cứu tiếp theo.

3.2.6 Ảnh hưởng của tốc độ nghiền tới kích thước tiểu phân

Nano berberin được bào chế theo quy trình như mô tả trong mục 2.3.2 với các thông số:

- Công thức hỗn dịch: 20% berberin (1 g), 1% (0,05g) HPMC E6, 0,4% NaLS (0,02g) Thể tích nước khoảng 5ml

- Bi zirconium oxid: khoảng 400 g gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10 g, 20 bi loại

Hỗn dịch berberin thu được sau khi nghiền được đánh giá KTTP, chỉ số đa phân tán PDI, thế zeta Kết quả được thể hiện trong Bảng 3.7 và Hình 3.7

Bảng 3.7 KTTP, PDI, thế zeta của hỗn dịch berberin theo tốc độ nghiền

Tần số (Hz) KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)

Hình 3.7 KTTP, PDI của hỗn dịch berberin theo tốc độ nghiền

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

KTTP nhỏ nhất đạt được là 538,7 nm khi nghiền ở tần số 30Hz, do ở tần số thấp hơn (25 Hz), lực mài mòn chủ yếu gây ra gãy vỡ tiểu phân, dẫn đến KTTP không giảm nhiều Ngược lại, khi tần số quá cao (35 Hz), lực ly tâm làm các viên bi ép vào thành, ngăn cản quá trình mài mòn và va đập, từ đó làm giảm hiệu suất và kích thước tiểu phân.

- PDI: Phân bố KTTP khi nghiền ở tần số 25; 30; 35 Hz lần lượt có PDI là 0,441;

0,543; 0,612 đều lớn hơn 0,3 chứng tỏ KTTP có khoảng phân bố rộng Công thức nghiền ở tần số 25 Hz là có khoảng phân bố nhỏ nhất

- Thế zeta: Giá trị tuyệt đối của thế zeta của các mẫu đều lớn cho thấy hỗn dịch nano berberin có thể có độ ổn định cao

Kết luận: Khi nghiền ở tần số 30 Hz thì thu được KTTP nhỏ nhất nên tần số 30 Hz được chúng tôi lựa chọn

3.2.7 Ảnh hưởng của thời gian nghiền tới kích thước tiểu phân

Nano berberin được bào chế theo quy trình như mô tả trong mục 2.3.2 với các thông số:

- Công thức hỗn dịch: 20% berberin (1 g), 1% (0,05g) HPMC E6, 0,4% NaLS (0,02g).Thể tích nước khoảng 5ml

- Bi zirconium oxid: khoảng 400 g gồm 04 bi loại 25g, 10 bi loại 10 g, 20 bi loại

Hỗn dịch nano berberin sau khi nghiền đã được đánh giá các chỉ số quan trọng như KTTP, chỉ số đa phân tán PDI và thế zeta Kết quả chi tiết được trình bày trong Bảng 3.8 và Hình 3.8.

Bảng 3.8 KTTP, PDI, thế zeta của hỗn dịch nano berberin theo thời gian nghiền

Thời gian (phút) KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Hình 3.8 KTTP, PDI của hỗn dịch nano berberin theo thời gian nghiền

KTTP nhỏ nhất đạt được là 563,6 nm sau 40 phút nghiền, cho thấy thời gian nghiền lâu hơn giúp phân chia các hạt hiệu quả hơn Tuy nhiên, nếu thời gian nghiền kéo dài quá lâu (50-60 phút), các tiểu phân nano có xu hướng kết tụ lại, dẫn đến việc tăng kích thước hạt.

- PDI: Phân bố KTTP khi nghiền trong 30;40;50;60 phút lần lượt là 0,823; 0,518;

0,707; 0,713 đều lớn hơn 0,3, chứng tỏ KTTP có khoảng phân bố rộng Trong đó, nghiền ở thời gian 40 phút có khoảng phân bố nhỏ nhất

- Thế zeta: Giá trị tuyệt đối của thế zeta của các mẫu đều lớn cho thấy hỗn dịch nano berberin có thể có độ ổn định cao

Kết luận: Thời gian nghiền 40 phút cho KTTP và PDI nhỏ nhất, nên thời gian nghiền

40 phút được chúng tôi lựa chọn

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Từ kết quả khảo sát, chúng tôi đề xuất quy trình bào chế nano berberin bằng phương pháp nghiền bi như sau:

Hình 3.9 Sơ đồ bào chế nano berberin bằng phương pháp nghiền bi

- 400 g bi zirconium oxid gồm 04 bi loại 25 g, 10 bi loại 10 g, 20 bi loại 5g, 50 bi loại 2 g

- Thời gian: 40 phút Đông khô:

Bảo quản bột nano berberin trong bình tránh ẩm ở nhiệt độ phòng

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Đánh giá một số đặc tính của bột nano berberin

Màu sắc: bột nano berberin có màu vàng giống nguyên liệu

Hình 3.10 Berberin nguyên liệu (bên trái) và bột nano berberin (bên phải)

3.3.2 Kích thước tiểu phân và phân bốkích thước tiểu phân, thế zeta

Bột nano berberin, được tạo ra từ quá trình đông khô, đã được đo kích thước và phân bố kích thước tiểu phân, sau đó so sánh với hỗn dịch nano berberin thu được từ phương pháp nghiền bi Kết quả chi tiết được trình bày trong Bảng 3.9 và Hình 3.11.

Bảng 3.9 KTTP, PDI, thế zeta của hỗn dịch nano berberin và bột nano berberin

Loại KTTP (nm) PDI Thế zeta (mV)

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Hình 3.11 KTTP, PDI của hỗn dịch nano berberin và bột nano berberin

Sau khi đông khô, bột nano berberin có kích thước hạt trung bình (KTTP) là 570,7 nm và chỉ số phân bố (PDI) là 0,576, cho thấy sự phân bố kích thước hạt rộng Kích thước hạt và PDI của bột nano berberin chỉ tăng nhẹ so với hỗn dịch nano berberin Cả hai mẫu đều có giá trị tuyệt đối của thế zeta cao, chứng tỏ khả năng ổn định tốt.

3.3.3 Độ hòa tan của berberin nguyên liệu và bột nano berberin Độ hòa tan của berberin nguyên liệu và bột nano berberin tại môi trường pH=6,8 được thể hiện như trong bảng

Bảng 3.10 Độ hòa tan của berberin nguyên liệu và bột nano berberin

Thời gian (phút) 5 10 15 30 60 Độ hòa tan (%)

Hỗn dịch nano berberin Bột nano berberin

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Hình 3.12 Độ hòa tan của berberin nguyên liệu và bột nano berberin

Nano berberin có độ hòa tan vượt trội hơn so với berberin nguyên liệu, với khả năng hòa tan đạt 26,31% sau 5 phút, gấp 1,6 lần so với berberin nguyên liệu.

Sau 60 phút, độ hòa tan của nano berberin gấp khoảng 1,5 lần nguyên liệu Từ phút thứ

5 đến phút 60, độ hòa tan tăng lên không nhiều, nano berberin (từ 26,31% lên 30,92%) và berberin nguyên liệu (từ 16,22% lên 20,87%)

3.3.4 Kết quả phân tích nhiệt vi sai

Phổ DSC cho thấy berberin nguyên liệu có các điểm chảy ở 72,4; 105,9; 206,2;

Điểm chảy của berberin nguyên liệu là 215,0 °C, trong khi mẫu nano berberin có các điểm chảy lần lượt là 69,2; 101,4; 205,4; và 221,4 °C Sự thay đổi điểm chảy này không đáng kể so với berberin nguyên liệu, cho thấy rằng quá trình nghiền bi không làm thay đổi trạng thái kết tinh của berberin ban đầu Sự khác biệt nhỏ về điểm chảy có thể được giải thích bởi sự hiện diện của HPMC E6 và NaLS trong công thức.

Bàn luận

3.4.1 Vềphương pháp bào chế nano bererin

Nghiên cứu đã áp dụng kỹ thuật nghiền bi để sản xuất nano berberin, một phương pháp đơn giản và nhanh chóng, có khả năng mở rộng quy mô công nghiệp Kỹ thuật này không sử dụng hexan độc hại, khác với phương pháp kết tủa bay hơi dung môi.

Berberin nguyên liệu Bột nano berberin

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Vào năm 2018, Sahibzada và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu, trong đó sau quá trình nghiền bi, hỗn dịch nano được xử lý đông khô nhằm loại bỏ dung môi, từ đó thu được chất rắn với hiệu suất cao.

3.4.2 Về xây dựng quy trình bào chế nano berberin

Nghiên cứu về bào chế hạt nano bằng phương pháp nghiền ướt cho thấy nồng độ polyme thường từ 1-10% (w/v) và tỉ lệ dược chất/polyme trong khoảng 10:1 đến 1:0.8 (w/w) Nồng độ chất diện hoạt thường dưới 1% và tỉ lệ dược chất/chất diện hoạt dao động từ 20/1 đến 1/0,5 Trong nghiên cứu này, polyme HPMC E6 và chất diện hoạt NaLS được lựa chọn với nồng độ lần lượt là 1% và 0,4%, giúp tạo ra nano berberin có kích thước nhỏ Việc sử dụng nồng độ thấp cho thấy sự tiết kiệm tá dược, đặc biệt là giảm thiểu NaLS, một chất diện hoạt ion hóa có thể gây độc tính khi dùng với nồng độ cao, từ đó tăng tính an toàn cho sản phẩm.

Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng các bi nhỏ có xu hướng tạo ra các hạt nano nhỏ hơn nhờ vào việc tăng diện tích tiếp xúc Kết quả cho thấy, khi sử dụng đồng thời bốn loại bi với kích thước 25, 10, 5 và 2 gram, kích thước hạt thu được không khác biệt nhiều so với việc chỉ sử dụng bi nhỏ, thậm chí còn có thể thu được kích thước hạt nhỏ hơn.

3.4.3 Về các đặc tính của bột nano berberin thu được a) Về KTTP:

Quy trình bào chế nano berberin cho thấy sau khi đông khô, thu được bột với kích thước trung bình (KTTP) là 570,7 ± 13,7 nm So với các phương pháp khác như kết tủa bay hơi (71,53 nm), kết tủa bằng thay đổi dung môi (102,62 nm), và đồng nhất hóa áp suất cao (72,4 nm), kích thước nano berberin từ phương pháp nghiền bi lớn hơn nhiều Phân bố KTTP khi sử dụng phương pháp nghiền bi có chỉ số PDI = 0,576, cho thấy khoảng phân bố rộng, trong khi phương pháp đồng nhất hóa có PDI = 0,3, chứng tỏ khoảng phân bố hẹp hơn.

Bột nano berberin được sản xuất qua phương pháp nghiền bi, cho thấy độ hòa tan đạt khoảng 26,31% chỉ sau 5 phút, gấp 1,6 lần so với berberin nguyên liệu Sau 60 phút, độ hòa tan của nano berberin tăng lên 30,92%, cho thấy hiệu quả vượt trội trong quá trình chế biến.

Phương pháp kết tủa bay hơi và kết tủa bằng thay đổi dung môi đã cho thấy hiệu quả hòa tan berberin, với độ hòa tan đạt 70% sau 15 phút và hoàn toàn sau 60 phút Mặc dù phương pháp nghiền bi đã cải thiện độ hòa tan của berberin, nhưng mức độ cải thiện vẫn chưa đạt yêu cầu cao.

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1 Kết luận

Sau một thời gian nghiên cứu, chúng tôi rút ra được các kết luận sau:

1) Nghiên cứu đã bào chế được nano berberin bằng phương pháp nghiền bi Công thức hỗn dịch gồm 20% berberin, 1% HPMC E6, 0,4% NaLS và nước Quy trình nghiền bi sử dụng bi zirconium oxid đồng thời cả bốn cỡ bi 25; 10; 5 và 2g, thời gian nghiền 40 phút, tần số nghiền 30 Hz Hỗn dịch nano berberin có KTTP trung bình 563,4 nm, PDI = 0,548, giá trị tuyệt đối thế zeta 28,1 mV Hỗn dịch được đông khô ở nhiệt độ -85 0 C đến -80 0 C, trong 24 giờ để thu được bột nano berberin

2) Nghiên cứu đã đánh giá được một số đặc tính của bột nano berberin như hình thức, KTTP (570,7 nm), phân bố KTTP (0, 576), giá trị tuyệt đối thế zeta (28,6 mV), phân tích nhiệt vi sai, tốc độ hòa tan (khoảng 30,92% sau 60 phút)

1) Thử tác dụng sinh học của bột nano berberin đã bào chế được như khả năng kháng nấm, kháng khuẩn,…

2) Ứng dụng bột nano berberin vào một số dạng bào chế như viên nén, viên nang cứng, viên nang mềm,…

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

[1] Bộ Y tế (1994), Dược điển Việt Nam II, Nhà xuất bản Y học tr 71-74

[2] Bộ Y tế (2002), Dược điển Việt Nam III, Nhà xuất bản Y học Hà Nội tr 178-

[3] Bộ Y tế (2017), Dược điển Việt Nam V, Nhà xuất bản y học

[4] Nguyễn Văn Dương (2017), "Nghiên cứu đánh giá viên bao bồi chứa berberin clorid", Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ, Đại học Dược Hà Nội

[5] Phạm Văn Giang (2013), "Nghiên cứu bào chế hệ tiểu phân nano curcurmin",

Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ, Đại học Dược Hà Nội

[6] Đồng Quang Huy (2014), "Nghiên cứu chiết xuất berberin từvàng đắng bằng dung dịch kiểm", Luận văn thạc sĩ dược học

[7] Từ Minh Koóng (2009), Kỹ thuật sản xuất dược phẩm, Nhà xuất bản y học tr

[8] La Vũ Thùy Linh (2010), Công nghệ nano – cuộc cách mạng trong khoa học kỹ thuật thế kỷ 21, Đại học Tôn Đức Thắng

[9] Nguyễn Thị Thơi (2018), "Nghiên cứu tạo vi nang alginat chứa berberin",

Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ, Đại học Dược Hà Nội

Tài liệu tiếng nước ngoài:

[10] Amin A H, Subbaiah T V, Abbasi K M (1969), "Berberine sulfate: antimicrobial activity, bioassay, and mode of action", Canadian journal of microbiology, 15 9 pp 1067-1076

[11] Caruthers S D, Wickline S A, Lanza G M (2007), "Nanotechnological applications in medicine", Current opinion in Biotechnology, 18 (1), pp 26-30

[12] Chun Y T, Yip T T, Lau K L, Kong Y C, et al (1979), "A biochemical study on the hypotensive effect of berberine in rats", Gen Pharmacol, 10 (3), pp 177-

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

[13] Duroudier J (2016), Freeze-drying Heat Transfer in the Chemical, Food and

[14] Hayashi K, Minoda K, Nagaoka Y, Hayashi T, et al (2007), "Antiviral activity of berberine and related compounds against human cytomegalovirus", Bioorg Med Chem Lett, 17 (6), pp 1562-1564

[15] Kong W, Wei J, Abidi P, Lin M, et al (2004), "Berberine is a novel cholesterol- lowering drug working through a unique mechanism distinct from statins", Nat

[16] Lee Y S, Kim W S, Kim K H, Yoon M J, et al (2006), "Berberine, a natural plant product, activates AMP-activated protein kinase with beneficial metabolic effects in diabetic and insulin-resistant states", Diabetes, 55 (8), pp

[17] Lin Y C, Kuo J Y, Hsu C C, Tsai W C, et al (2013), "Optimizing manufacture of liposomal berberine with evaluation of its antihepatoma effects in a murine xenograft model", Int J Pharm, 441 (1-2), pp 381-388

[18] Lin Y H, Lin J H, Chou S C, Chang S J, et al (2015), "Berberine-loaded targeted nanoparticles as specific Helicobacter pylori eradication therapy: in vitro and in vivo study", Nanomedicine (Lond), 10 (1), pp 57-71

[19] Malamatari M, Taylor K M G, Malamataris S, Douroumis D, et al (2018),

"Pharmaceutical nanocrystals: production by wet milling and applications",

[20] Peng W H, Lo K L, Lee Y H, Hung T H, et al (2007), "Berberine produces antidepressant-like effects in the forced swim test and in the tail suspension test in mice", Life Sci, 81 (11), pp 933-938

[21] Pragasam Viswanathan, Yuvashree Muralidaran, Ragavan G

(2017), Challenges in oral drug delivery: a nano-based strategy to overcome

Nanostructures for oral medicine, pp 173-201

[22] Sahibzada M U K, Sadiq A, Faidah H S, Khurram M, et al (2018), "Berberine nanoparticles with enhanced in vitro bioavailability: characterization and antimicrobial activity", Drug Des Devel Ther, 12 pp 303-312

[23] Vijaykumar Nekkanti, Vabalaboina V, Pillai R (2009), The Delivery of

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

[24] Wang T, Wang N, Song H, Xi X, et al (2011), "Preparation of an anhydrous reverse micelle delivery system to enhance oral bioavailability and anti- diabetic efficacy of berberine", Eur J Pharm Sci, 44 (1-2), pp 127-135

[25] Wang Z, Wang Y S, Chang Z M, Li L, et al (2017), "Berberine-loaded Janus nanocarriers for magnetic field-enhanced therapy against hepatocellular carcinoma", Chem Biol Drug Des, 89 (3), pp 464-469

[26] Wang Z, Wu J, Zhou Q, Wang Y, et al (2015), "Berberine nanosuspension enhances hypoglycemic efficacy on streptozotocin induced diabetic C57BL/6 mice", Evid Based Complement Alternat Med, 2015 pp 239749

[27] Xue M, Zhang L, Yang M X, Zhang W, et al (2015), "Berberine-loaded solid lipid nanoparticles are concentrated in the liver and ameliorate hepatosteatosis in db/db mice", Int J Nanomedicine, 10 pp 5049-5057

[28] Ye M, Fu S, Pi R, He F (2009), "Neuropharmacological and pharmacokinetic properties of berberine: a review of recent research", J Pharm Pharmacol, 61

[29] Abdelwahed W, Degobert G, Stainmesse S, Fessi H (2006), "Freeze-drying of nanoparticles: formulation, process and storage considerations", Advanced drug delivery reviews, 58 (15), pp 1688-1713

[30] Junyaprasert V B, Morakul B (2015), "Nanocrystals for enhancement of oral bioavailability of poorly water-soluble drugs", asian journal of pharmaceutical sciences, 10 (1), pp 13-23

[31] Khemani M, Sharon M, Sharon M (2012), "Encapsulation of berberine in nano- sized PLGA synthesized by emulsification method", ISRN Nanotechnology,

[32] Kuo C-L, Chi C-W, Liu T-Y (2004), "The anti-inflammatory potential of berberine in vitro and in vivo", Cancer letters, 203 (2), pp 127-137

[33] Loh Z H, Samanta A K, Heng P W S (2015), "Overview of milling techniques for improving the solubility of poorly water-soluble drugs", Asian journal of pharmaceutical sciences, 10 (4), pp 255-274

[34] Peltonen L (2018), "Design space and QbD approach for production of drug nanocrystals by wet media milling techniques", Pharmaceutics, 10 (3), pp

C opyri ght @ Sc hool of Me di ci ne a nd Pha rm ac y, VNU

Phụ lục 1: Phân tích DSC của berberin nguyên liệu

Ngày đăng: 01/12/2021, 19:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[2]. Bộ Y tế (2002), Dược điể n Vi ệ t Nam III, Nhà xuất bản Y học Hà Nội tr. 178- 179 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dược điển Việt Nam III
Tác giả: Bộ Y tế
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học Hà Nội tr. 178-179
Năm: 2002
[4]. Nguyễn Văn Dương (2017), "Nghiên c ứu đánh giá viên bao bồ i ch ứ a berberin clorid", Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ, Đại học Dược Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu đánh giá viên bao bồi chứa berberin clorid
Tác giả: Nguyễn Văn Dương
Năm: 2017
[5]. Phạm Văn Giang (2013), "Nghiên c ứ u bào ch ế h ệ ti ể u phân nano curcurmin", Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ, Đại học Dược Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu bào chế hệ tiểu phân nano curcurmin
Tác giả: Phạm Văn Giang
Năm: 2013
[6]. Đồng Quang Huy (2014), "Nghiên c ứ u chi ế t xu ấ t berberin t ừ vàng đắ ng b ằ ng dung d ị ch ki ể m", Luận văn thạc sĩ dược học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu chiết xuất berberin từvàng đắng bằng dung dịch kiểm
Tác giả: Đồng Quang Huy
Năm: 2014
[7]. Từ Minh Koóng (2009), K ỹ thu ậ t s ả n xu ất dượ c ph ẩ m, Nhà xuất bản y học tr. 25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỹ thuật sản xuất dược phẩm
Tác giả: Từ Minh Koóng
Nhà XB: Nhà xuất bản y học tr. 25
Năm: 2009
[8]. La Vũ Thùy Linh (2010), Công ngh ệ nano – cu ộ c cách m ạ ng trong khoa h ọ c k ỹ thu ậ t th ế k ỷ 21, Đại học Tôn Đức Thắng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công nghệ nano – cuộc cách mạng trong khoa học kỹ thuật thế kỷ 21
Tác giả: La Vũ Thùy Linh
Năm: 2010
[9]. Nguyễn Thị Thơi (2018), "Nghiên c ứ u t ạ o vi nang alginat ch ứ a berberin", Khóa luận tốt nghiệp dược sĩ, Đại học Dược Hà Nội.Tài li ệ u ti ế ng nướ c ngoài Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tạo vi nang alginat chứa berberin
Tác giả: Nguyễn Thị Thơi
Năm: 2018
[10]. Amin A H, Subbaiah T V, Abbasi K M (1969), "Berberine sulfate: antimicrobial activity, bioassay, and mode of action", Canadian journal of microbiology, 15 9 pp. 1067-1076 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Berberine sulfate: antimicrobial activity, bioassay, and mode of action
Tác giả: Amin A H, Subbaiah T V, Abbasi K M
Năm: 1969
[11]. Caruthers S D, Wickline S A, Lanza G M (2007), "Nanotechnological applications in medicine", Current opinion in Biotechnology, 18 (1), pp. 26-30 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nanotechnological applications in medicine
Tác giả: Caruthers S D, Wickline S A, Lanza G M
Năm: 2007
[12]. Chun Y T, Yip T T, Lau K L, Kong Y C, et al (1979), "A biochemical study on the hypotensive effect of berberine in rats", Gen Pharmacol, 10 (3), pp. 177- 182 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A biochemical study on the hypotensive effect of berberine in rats
Tác giả: Chun Y T, Yip T T, Lau K L, Kong Y C, et al
Năm: 1979
[13]. Duroudier J (2016), Freeze-drying. Heat Transfer in the Chemical, Food and Pharmaceutical Industries, pp. 359–377 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Freeze-drying. Heat Transfer in the Chemical
Tác giả: Duroudier J
Năm: 2016
[14]. Hayashi K, Minoda K, Nagaoka Y, Hayashi T, et al (2007), "Antiviral activity of berberine and related compounds against human cytomegalovirus", Bioorg Med Chem Lett, 17 (6), pp. 1562-1564 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Antiviral activity of berberine and related compounds against human cytomegalovirus
Tác giả: Hayashi K, Minoda K, Nagaoka Y, Hayashi T, et al
Năm: 2007
[15]. Kong W, Wei J, Abidi P, Lin M, et al (2004), "Berberine is a novel cholesterol- lowering drug working through a unique mechanism distinct from statins", Nat Med, 10 (12), pp. 1344-1351 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Berberine is a novel cholesterol-lowering drug working through a unique mechanism distinct from statins
Tác giả: Kong W, Wei J, Abidi P, Lin M, et al
Năm: 2004
[16]. Lee Y S, Kim W S, Kim K H, Yoon M J, et al (2006), "Berberine, a natural plant product, activates AMP-activated protein kinase with beneficial metabolic effects in diabetic and insulin-resistant states", Diabetes, 55 (8), pp.2256-2264 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Berberine, a natural plant product, activates AMP-activated protein kinase with beneficial metabolic effects in diabetic and insulin-resistant states
Tác giả: Lee Y S, Kim W S, Kim K H, Yoon M J, et al
Năm: 2006
[17]. Lin Y C, Kuo J Y, Hsu C C, Tsai W C, et al (2013), "Optimizing manufacture of liposomal berberine with evaluation of its antihepatoma effects in a murine xenograft model", Int J Pharm, 441 (1-2), pp. 381-388 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Optimizing manufacture of liposomal berberine with evaluation of its antihepatoma effects in a murine xenograft model
Tác giả: Lin Y C, Kuo J Y, Hsu C C, Tsai W C, et al
Năm: 2013
[18]. Lin Y H, Lin J H, Chou S C, Chang S J, et al (2015), "Berberine-loaded targeted nanoparticles as specific Helicobacter pylori eradication therapy: in vitro and in vivo study", Nanomedicine (Lond), 10 (1), pp. 57-71 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Berberine-loaded targeted nanoparticles as specific Helicobacter pylori eradication therapy: in vitro and in vivo study
Tác giả: Lin Y H, Lin J H, Chou S C, Chang S J, et al
Năm: 2015
[19]. Malamatari M, Taylor K M G, Malamataris S, Douroumis D, et al (2018), "Pharmaceutical nanocrystals: production by wet milling and applications", Drug Discov Today, 23 (3), pp. 534-547 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Pharmaceutical nanocrystals: production by wet milling and applications
Tác giả: Malamatari M, Taylor K M G, Malamataris S, Douroumis D, et al
Năm: 2018
[20]. Peng W H, Lo K L, Lee Y H, Hung T H, et al (2007), "Berberine produces antidepressant-like effects in the forced swim test and in the tail suspension test in mice", Life Sci, 81 (11), pp. 933-938 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Berberine produces antidepressant-like effects in the forced swim test and in the tail suspension test in mice
Tác giả: Peng W H, Lo K L, Lee Y H, Hung T H, et al
Năm: 2007
[21]. Pragasam Viswanathan, Yuvashree Muralidaran, Ragavan G (2017), Challenges in oral drug delivery: a nano-based strategy to overcome.Nanostructures for oral medicine, pp. 173-201 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Challenges in oral drug delivery: a nano-based strategy to overcome. "Nanostructures for oral medicine
Tác giả: Pragasam Viswanathan, Yuvashree Muralidaran, Ragavan G
Năm: 2017
[22]. Sahibzada M U K, Sadiq A, Faidah H S, Khurram M, et al (2018), "Berberine nanoparticles with enhanced in vitro bioavailability: characterization and antimicrobial activity", Drug Des Devel Ther, 12 pp. 303-312 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Berberine nanoparticles with enhanced in vitro bioavailability: characterization and antimicrobial activity
Tác giả: Sahibzada M U K, Sadiq A, Faidah H S, Khurram M, et al
Năm: 2018
w